Blog

  • Cụ ông 65t lấy vợ trẻ 30t, đêm tân hôn cả nhà bỗng nghe tiếng th;ấ;t th;anh, mở cửa vào thì chứng kiến cảnh

    Đêm trước ngày cưới của cô Hạnh và anh Quân, tôi thức đến gần sáng. Mùi nhang từ bàn thờ chị Hà quyện vào mùi nước hoa nhè nhẹ của lọ cắm huệ trắng mới thay, thành một thứ hương dằng dặc, vừa mát vừa đắng. Gió ngoài hiên lùa qua tấm màn ren, nâng dải khăn tang mỏng còn đặt trên khung ảnh chị, để nó khẽ rung như một tiếng thở dài không chịu tắt.

    Trong nhà, mọi thứ đã được sắp xếp theo một trật tự mới, lạ lẫm như khi người ta đổi vị trí ghế bàn mà vẫn ngồi vào đúng chỗ cũ của mình: tấm phông đỏ căng giữa phòng khách, đôi câu đối mạ vàng bóng loáng, bức ảnh cưới in sẵn của cô Hạnh và anh Quân dựng nghiêng trên kệ gỗ, phía góc khuất là con gấu bông của bé Măng – con gái chị Hà – ôm một chiếc nơ sờn mép. Ánh đèn vàng rọi lên những miếng decal hình chim hạc, chúng đứng thành đôi, cổ vươn hướng về một chỗ nào đó tôi không biết.

    Chị gái tôi, Hà, mất vào tháng Ba. Đợt mưa trái mùa kéo dài, chuyến xe từ miền núi về thành phố gặp sạt lở. Người ta bảo chị bị cuốn xuống suối, tìm được chiếc nhẫn vàng kẹt trong kẽ đá như một vệt nắng mắc vào rêu xanh. Đám tang chị lặng lẽ. Anh Quân khóc đến sưng mắt, cô Hạnh cõng Măng đi quanh nhà, tay phát kẹo cho khách viếng như sợ con bé nhớ mẹ mà đòi. Tôi đặt tay lên khung ảnh, ngón tay chạm vào làn da vô hình của một người không còn ở đây, tự nhủ: sẽ qua thôi, sẽ qua.

    Nhưng chưa kịp qua, người ta đã rủ nhau về nhà tôi ăn cưới.


    Mọi bà con đều có cách rỉ rả riêng. Họ ghé tai nhau thì thầm ngoài hiên: “Mỗi người mỗi phận… nhưng cũng lạ ghê.” “Vừa xong 49 ngày đã nói chuyện cưới, nej?” “Cô ruột mà lấy rể của anh trai mình…” Những dấu ba chấm trôi dọc theo mấy cái cột nhà sơn giả gỗ, dừng ở mắt tôi. Tôi ngẩng lên, mỉm cười như một người vừa học xong bài học “điềm tĩnh”. Bên trong, mẹ tôi bưng mâm xôi gấc đặt lên bàn thờ. Bà nhìn tôi, yếu ớt: “Hổm rày má nằm mơ thấy chị con.” Tiếng “chị con” đi qua cổ họng bà như hòn sỏi.

    Tôi không biết phải trả lời thế nào. Từ ngày ba mất sớm, cô Hạnh – em ruột của ba – lăn lộn với mẹ con tôi không khác gì mẹ ruột thứ hai. Cô ở ngay nhà bên, cái sân nhỏ nối giữa hai nhà có hàng giấy đỏ leo qua leo lại như một cành tay. Khi Hà lấy Quân, cô cười rạng rỡ như người gả con gái. Họ yêu nhau từ lớp 12, đi qua những mùa hoa điệp vàng, qua kỳ thi đại học trầy trật, qua cảnh nhà Quân nghèo như gió mùa. Rồi một ngày, Quân mặc vest vừa vặn, cầm tay chị tôi trong lễ cưới, còn cô đứng cạnh mẹ, lau nước mắt.

    Thế nên khi anh Quân nói sẽ cưới cô Hạnh, tôi nghe tiếng thủy tinh rạn đâu đó trong đầu. “Cưới… cô?” Tôi nhắc lại, sợ mình nghe nhầm. Quân im lặng, tay anh siết chặt quai ly cà phê, mắt đỏ ngầu vì đêm nào cũng thức dỗ bé Măng. “Hạnh bảo, làm vậy để Măng có đủ cả cha lẫn mẹ… để có người đứng tên cùng anh, lo giấy tờ cho nó vào trường, rồi nhà cửa…” Anh nói như người đọc thuộc một lời giải thích cho qua một bài thi khó. “Hạnh thương em, thương Măng. Anh… anh cũng muốn có người thân trong nhà đỡ đần.” Anh tránh mắt tôi. Ở góc quán, cái quạt máy rung rung, thổi vào nhau những lớp bụi cũ.

    “Còn chị Hà?” Tôi hỏi nhỏ. Câu hỏi như rơi xuống mặt bàn, bật lên một cái búng tay khô.

    “Hà… không còn.” Quân khép mắt. Ở khóe môi anh có một đường rạn như vết nứt mỏng trên chén sứ.

    Lúc ấy, tôi đã không biết giận ai. Tôi đi về nhà, qua hàng giấy, chạm vào cái lá đỏ khô giòn. Nó vỡ tan trong tay.


    Ngày cưới đến rất nhanh, như mọi ngày buồn đều có một thói quen khẩn cấp. Bàn tròn bọc khăn trắng, ghế phủ vải satin, những dải lụa kết hình trái tim treo dọc lối đi. Mẹ tôi vẫn xếp củ hành tím vào góc bếp như mọi lần trong nhà có cỗ. Bà bảo làm vậy cho đỡ hăng mùi dầu mỡ. Tôi thấy tay bà run.

    Cô Hạnh mặc áo dài đỏ. Cô đẹp một vẻ đẹp lặng lẽ, sự chín chắn và ngượng nghịu quấn vào nhau như hai sợi chỉ lẫn lộn. Cô từ chối đội khăn đóng: “Cô già rồi, đội cái chi nữa.” Cô nói vậy mà mắt lại nhìn vào tấm gương lâu hơn bình thường. Tôi ghé sau lưng cô. “Cô,” tôi gọi, giữ tay cô trong lòng bàn tay mình. Tay cô lạnh. “Cô chắc chưa?” Cô nhìn tôi qua gương, nụ cười như một đường cong mỏi mệt. “An, đời không đi thẳng, con ơi. Trái tim mình có đường vòng, miễn là đi để quay về nhà.”

    Tôi im. Tôi không hỏi vì sao cô và anh Quân lại vội nhau đến thế. Đôi khi người lớn có những vội vàng mà người trẻ không cách nào hiểu hết trọn.

    Lễ gia tiên diễn ra vào buổi sáng. Họ hàng hai bên xếp thành hai hàng. Khói nhang bay chao, người ta lầm rầm khấn. Cặp đèn cầy đỏ run rẩy như hai kẻ say rượu.

    Đến trưa, rạp cưới chật người. MC nói những câu quen thuộc, kể một câu chuyện lạc đề về bông hoa tự tìm thấy nắng. Con bé Măng – váy trắng, giày búp bê hồng – chạy lăng xăng giữa các bàn, đôi mắt tròn vo. Tôi gọi nó, bế lên. “Bữa nay, Măng ngoan, nha.” Nó gật, ríu rít: “Mẹ ơi…” Rồi nó chợt khựng lại, như nhớ ra, đổi giọng: “Cô ơi…” Tôi ôm chặt nó thêm một chút.

    Và chính lúc MC hô “Xin mời cô dâu chú rể tiến vào”, khi tiếng vỗ tay chưa kịp rộ lên hết, khi bản nhạc “Ngày đầu tiên” mới lên được nhịp thứ hai, thì cửa rạp mở ra.

    Một người phụ nữ bước vào, dáng gầy, mặc một chiếc áo nâu mộc, tóc búi gọn sau gáy. Trên cổ bà đeo một hạt chuỗi gỗ. Bà không son phấn, tay trái mang một chiếc vòng bạc mờ. Bà không phải dạng khách mời ai cũng biết. Bà bước chậm, nhưng mỗi bước đi uốn nếp im lặng của cả hội trường theo gót chân mình. Mọi tiếng nói cụp xuống, như những cái lồng bàn đậy vội lên bát canh nghi ngút.

    Bà dừng ở thảm đỏ, ngước mắt. Đôi mắt bà sáng và sâu như hai cái giếng cổ. Bà đưa tay. Đằng sau lưng bà, một người khác xuất hiện, đội chiếc nón lá cũ, nắm lấy tay bà như nắm một sợi dây sinh mệnh.

    Tôi đứng bật dậy.

    Đó là… chị Hà.

    Tấm nón rơi xuống, tóc chị xõa qua vai, bờ trán có vết sẹo nhỏ màu ngà. Chị gầy, nắng và gió hằn lên da một màu sậm, nhưng đôi mắt ấy… là đôi mắt tôi đã chạm vào qua khung ảnh suốt mấy tháng qua. Cả rạp dậy lên một tiếng “ồ” không thành hình. Mẹ tôi kêu khẽ, tuột khỏi tay cái muỗng canh. Con bé Măng cứng người một giây rồi bổ nhào khỏi tay tôi như con thỏ vỡ chuồng, lao về phía chị. “Mẹ! Mẹ ơi!” Nó gọi, tiếng gọi vỡ ra như hạt bắp nổ trong chảo nóng.

    Chị dang tay. Hai mẹ con ôm nhau. Tiếng khóc của con trẻ, tiếng chị nấc, tiếng người lớn đưa tay bịt miệng. Anh Quân khựng lại trên thảm đỏ, mặt trắng bệch như tờ giấy in chưa mực. Cô Hạnh đứng bên cạnh, tay cô buông xuôi, rồi chậm rãi cài lại chiếc khuy áo trước cổ như người ta khép một cánh cửa.

    Người phụ nữ áo nâu đặt tay lên vai tôi. Giọng bà trầm: “Con gái… đừng sợ.” Tôi quay sang, vừa gật vừa lắc, nước mắt trào ra không kịp dừng. Bà nhìn khắp lượt, gật đầu chào. “Tôi là Trầm. Tôi ở một mái nhà bên bờ biển. Tôi nhặt người này về giữa một đêm tháng Ba.”


    Câu chuyện vỡ ra sau chừng ba chén nước trà. Bà Trầm nói bà làm việc cho một nhóm cứu hộ tự phát. Đêm chị Hà mất tích, mưa làm con suối mập ra như một con trăn. Người ta tìm một ngày, hai ngày không thấy. Thì ra, dòng nước quăng chị ra cửa sông — nơi có những con thuyền đánh cá ngư dân neo lại tránh lũ. Chị kẹt vào lưới, bất tỉnh. Ông lão chủ thuyền đưa chị vào bờ, bế vào chòi của bà Trầm. Chị không nhớ tên mình trong nhiều tuần, câu đầu tiên chị nói khi tỉnh lại là “đừng tắt đèn…”

    Bà Trầm cười, miệng có một chiếc răng khểnh đã sẫm màu thuốc lào. “Ở chỗ tôi, không có giấy tờ gì, chỉ có người. Tôi nuôi chị ấy bằng cháo cá với nước dừa, chờ trí nhớ quay lại. Khi chị ấy nhớ được nhà, mấy đứa nhỏ trong xóm ôm chị khóc như gặp mẹ. Tôi nói: thôi, để chị ấy về nhà.”

    “Vậy… sao đến bây giờ?” Người ta hỏi, giọng vỡ vụn vì một hột sạn vô hình.

    Bà Trầm đặt tách trà xuống, ánh mắt chậm rãi như đưa tay qua một bụi gai. “Vì chị ấy còn một chuyện ở lại giải.” Bà hất cằm về phía tôi, rồi sang phía cô Hạnh, rồi dừng lại ở Quân. “Chị ấy sợ về giữa cơn giận. Sợ về khi hờn dỗi vẫn còn lửa. Sợ về lúc người ta chưa hiểu hết nhau.”

    Chị Hà nắm tay con bé Măng, mỉm cười. “Em xin lỗi vì không về ngay.” Chị nhìn tôi. “Hồi nhớ được, em muốn về liền. Nhưng em biết nhà mình sẽ căm hận nhiều người. Em cần biết… sự thật. Em cần coi anh Quân có còn là anh Quân. Và em cần nghe cô Hạnh nói.”

    Cô Hạnh gỡ chiếc trâm ra khỏi tóc. Tiếng trâm rơi vào lòng bàn tay nghe như tiếng một cánh cửa khép êm. Cô bước lên một bước, đứng thẳng lưng. “Chị Hà…” Cô gọi người mà lâu nay cô tránh gọi tên vì sợ bật khóc. “Cô… đáng lẽ phải nói với con An hết từ đầu. Nhưng cô sợ. Cô sợ làm rối cái nhà, mà càng nhịn càng dồn chuyện thành bịch.”

    Cô quay sang cả rạp. “Cái đám cưới này… không phải đám cưới.” Cô mím môi, cười mệt. “Là cô dựng.” Tiếng xì xầm dậy lên như một bầy chim sẻ. “Cô dựng để lấy cớ tụ đủ bà con họ hàng. Cô dựng để anh Quân không chạy đi đâu. Cô dựng để… trả lại cho con Hà một căn phòng sáng.”

    Anh Quân giật mình. “Hạnh…” Anh gọi như người lún chân trong bùn gọi kẻ đang đi trước. “Em…” Anh nhìn quanh, ánh mắt hốt hoảng như vừa nhận ra nơi mình đứng không phải đường nhà mà là miệng giếng.

    Cô Hạnh nhìn thẳng vào anh. “Tụi mình ký giấy tờ gì hôm qua, anh nhớ không?” Cô hất mặt về phía một người đàn ông mặc vest đen đứng cạnh cửa – luật sư của cô, hoá ra đã có mặt từ trước mà không ai để ý. Anh ta mở cặp, rút một xấp giấy. “Đây là văn bản công chứng uỷ quyền tạm thời của anh Quân cho bà Hạnh trong việc đại diện cho bé Măng về nhân thân, tài sản và hộ tịch, cùng với biên bản thoả thuận tách bạch phần nhà ba má vợ để tránh bị kê biên do khoản nợ riêng của anh.” Luật sư đọc rõ từng chữ, cắt rành rọt như người mổ cá.

    Không khí đặc lại. Từ góc phòng vọng ra tiếng ai đó nuốt khan.

    “Anh ký vì nghĩ sẽ cưới được cô.” Cô Hạnh nói rất nhỏ, nhưng rành mạch. “Nhưng cô không cưới anh. Cô cưới… lý trí.” Cô cười nhạt. “Anh nợ người ta một khoản, anh nghĩ dùng căn nhà của ba má nó để cầm. Cô không để. Đó là lý do thứ nhất. Lý do thứ hai: Cô không thể nhìn Măng bị bứt ra khỏi lòng nó như một cái lá khỏi cọng. Cô cần một cái cớ hợp pháp, để đứng ra che cái mái này cho tới khi…”

    Cô chợt nghẹn. Tôi hiểu chữ “tới khi” ấy đã chèo qua nhiều đêm làm cô mỏi rời.

    “Tới khi chị Hà về.” Tôi nói hộ cô. Tôi nghe tiếng mình rơi xuống sàn, nhẹ như bông lúa.

    Anh Quân đứng chết như tượng. Mặt anh không còn một màu nào ngoài màu tro. “Hà, anh… anh…” Anh lắp bắp. “Anh tưởng em chết.” “Không,” chị Hà nói, giọng dịu như bọt. “Anh tưởng em chết thì anh đỡ phải đối diện với nợ. Đỡ phải xin lỗi em vì những tin nhắn anh đã xoá, những lần đi công trình mà không có công trình nào, những đêm về muộn mùi nước hoa lạ. Em không chết. Em đứng trên bờ, nhìn anh ngồi với cô Hạnh bàn cưới, em hiểu: có khi mất tích không phải vì dòng nước, mà vì người ta muốn mất nhau.”

    Anh Quân ngã phịch xuống ghế, hai tay ôm đầu. Nước mắt đàn ông rơi khó. Nhưng có những thứ không muốn rơi cũng rơi.

    Một tiếng đập bàn vang lên: cậu Năm – em họ bên chồng chị Hà – nóng tính nhất nhà, ưỡn ngực. “Tóm lại, mấy người bày mưu bày kế, còn tụi tui coi như bù nhìn hả?” Cậu chỉ tay vào luật sư. “Đem công an tới luôn đi.”

    “Không cần ai bắt ai.” Bà Trầm nói, giọng bà cứng như cái gọng nón. “Một mái nhà không phải to lên vì người ta vào ra, mà vì người ta biết đặt xuống giữa nhà những thứ nặng nhất. Hôm nay, mấy người đặt xuống rồi đó.”

    Cô Hạnh bỗng lấy từ túi áo dài ra một phong bì niêm chì cũ, đặt lên bàn thờ. “Thư của ba tụi con.” Cô nói, nhìn hai chị em tôi. “Ba con đưa cô từ trước khi ông mất. Ông nói: ‘Có khi nào tụi nhỏ lạc đường, con giữ giùm cái đèn.’” Cô mở phong bì, rút ra tờ di chúc viết tay. Mực tím nhạt nhưng nét chữ còn sắc. Trong đó, ba để lại căn nhà cho “hai đứa con gái và mọi đứa cháu ngoại/cháu nội sinh ra từ hai đứa nó.” Không một chữ nào nhắc tới thông gia hay rể. Lý lẽ của người đã khuất nghiêng như chiếc thước gỗ cũ, đo một đường thẳng rất hiền.

    Mẹ tôi bật khóc. Bà lau nước mắt bằng chiếc khăn tay đã bạc. “Ông ngày xưa vậy đó.” Bà nói giữa hai tiếng nấc. “Ông tính hết rồi mà không ai chịu tin.”

    Anh Quân nhìn tờ giấy, mặt co giật. “Anh không tranh nhà.” Anh gần như hét. “Anh… anh chỉ muốn… anh chỉ muốn…” Anh dừng lại, như người nắm lọt tay một nắm khói.

    Chị Hà đến bên anh. Chị không giận, cũng không trách. Chị chỉ đặt tay lên vai anh như đặt một nắm cát lên một chỗ ướt: “Anh muốn người ta đừng nghĩ anh tệ. Nhưng cái muốn đó phải bắt đầu từ chỗ anh đừng tệ.” Chị ngước nhìn cô Hạnh, rồi quay sang tôi. “Em An, cô Hạnh, bà Trầm đã giữ nhà giúp em. Bây giờ… mình dọn lại, được không?”

    Cả rạp lặng đi như nghe tiếng một nhát cuốc đầu tiên rơi xuống miếng đất mới.


    Sau buổi “cưới” ấy, người ta không mang cỗ về nhà chồng nữa. Họ mang ghế xuống, cuộn dây đèn, rút cọc. Măng ngồi trong lòng chị Hà, tay vẫn ôm chiếc nơ sờn mép, ánh mắt nhìn theo cái phông đỏ bị tháo xuống như nhìn một con diều vừa rút khỏi dây. Tôi sờ vào phần da dưới mắt chị, nơi chiếc sẹo nhỏ nằm như một dấu phẩy. “Đau không?” Tôi hỏi ngốc nghếch. Chị cười, nụ cười có mùi nắng. “Đi qua được rồi, hết đau.”

    Chiều đó, chúng tôi làm mâm cơm nhỏ. Mẹ bày bát đũa như những năm cũ. Cô Hạnh thay áo lam, buộc tóc gọn, rửa đĩa nhanh như cơn mưa rào. Cô ngồi cạnh mẹ, bỗng chốc thấy nhỏ đi, không còn là “cô dâu” vừa rồi nữa mà chỉ là cô Hạnh của hai đứa chúng tôi, người từng nhổ tóc sâu cho mẹ, dỗ An ăn cháo bằng cách đếm những chiếc đũa. “Cô xin lỗi hai đứa.” Cô nói khẽ. Tôi lắc đầu. “Cô làm chuyện khó nhất rồi. Còn lại để tụi con.”

    Đêm xuống. Ngoài hiên, hoa giấy rủ xuống một chùm đỏ như cái khăn phủ trên vai cô dâu lúc rút dâu về nhà mới. Tôi ra sân, thấy bà Trầm đứng nhìn lên trời. “Bà về liền hả?” Tôi hỏi. Bà gật. “Trên biển còn người đợi.” Bà ngừng một chút, rồi nói: “Đừng trách nhau dai. Cái bờ không dằn đá thật cao mà bờ mạnh là bờ biết khi nào mở cho nước vào, khi nào đẩy nước ra.” Tôi không hiểu hết ngay, nhưng tôi hiểu đó là một lời dặn.

    “Tại sao bà biết mà tới đúng lúc như vậy?” Tôi hỏi thêm, tò mò như con nít. Bà cười, dấu chân chim ở đuôi mắt chụm lại: “Vì người ta nhắn. Cái người biết chuyện ở nhà này nhiều nhất.” Bà nhìn thẳng vào cô Hạnh đang đứng ở khung cửa, đôi mắt nâu của cô rọi ra ánh đèn bếp vàng. “Cô của con.”

    Tôi nhìn cô. Cô cúi đầu. Tôi bỗng thấy rõ cô là một người đàn bà đã học cách giấu nước mắt vào những công việc nhỏ: vo gạo, nhổ cọng hành, cất tấm khăn bàn. Người như thế không chối bỏ trách nhiệm, họ chỉ làm nó xong trước khi kể.


    Một tháng sau, người ta thấy trong xóm tấm biển nhỏ treo trước cửa nhà tôi: “Lớp học vỡ lòng – miễn phí.” Bên dưới là dòng chữ nắn nót của chị Hà. Mỗi chiều, mấy đứa trẻ trong xóm, đứa bỏ học vì nhà xa, đứa vì cha mẹ đi làm, đứa vì dịch bệnh lỡ mất lớp, xách cặp sờn mép đến ngồi bệt dưới nền, đọc ê a “ba bà bế bé bòng.” Cô Hạnh pha trà, thỉnh thoảng cầm thước gõ nhẹ vào mấy cái mông bé xíu vì tội nói chuyện, rồi cười hiền. Anh Quân… cũng đến. Anh cạo mái lại cho gọn, xin việc ở xưởng mộc gần nhà. Anh đón Măng tan học, một tay đỡ cặp, tay kia che đầu con. Anh không nói gì nhiều, lâu lâu mang về một ký cá lóc, nhờ mẹ kho tộ. Mẹ tôi ừ, bớt chao chát với anh dần như bớt muối trong chảo.

    Có người hỏi tôi: “Rồi cô Hạnh và anh Quân…?” Tôi cười. Không ai nói tới chữ “cưới” nữa. Giấy tờ uỷ quyền còn hiệu lực đến khi chị Hà làm xong thủ tục thay đổi sau khi… quay về từ chỗ mà pháp luật gọi là “mất tích”. Từ đó về sau, họ ở chung một mái nhà mà mỗi người đều biết vị trí của mình: cô là cô của tụi tôi, và là người lớn đứng ra nói chuyện với thế gian khi tụi tôi đuối; anh là cha của Măng và là người đang học lại cách làm chồng, nếu mai này còn cần.

    Có một buổi chiều, mưa rơi mỏng như tơ. Tôi ngồi trong bếp gọt vỏ trái cóc, chị Hà đem ra cho tôi xem một xấp giấy. “Đây là mấy tờ giấy cô Hạnh giữ hộ em hồi em chưa nhớ được.” Trong đó có sổ tiết kiệm mà chị cất cho đến ngày Măng vào lớp một, có mấy tấm ảnh chị chụp chợ miền biển – những người đàn bà ngồi sàng cá, có một tờ giấy bút chì: danh sách những người chị muốn cảm ơn. Tên đầu tiên là “Cô Hạnh”. Tên thứ hai: “Bà Trầm.”

    “Em còn viết nữa.” Chị cười. “Viết thêm ‘An’.” Tôi xua tay. “Em làm gì đâu.” Chị lắc đầu, chỉ vào một góc giấy mỏng, nơi có vết vằn như ai đó đã khóc lên giấy. “Tên ai ghi trên nước mắt, người đó đáng kể.”

    Tối ấy, khi tôi đi ngang phòng cô, tôi thấy cô đang cầm cái trâm đã rơi hôm cưới, nâng lên trước ánh đèn. Cô đeo thử lên tóc, rồi tháo xuống. Tôi gõ nhẹ vào cửa. “Cô à…” Cô quay lại. “Mai con qua nhà bà Trầm đem ít đồ.” Cô gật. “Con gửi giùm cô lời cám ơn.”

    “Tự cô đi chứ.” Tôi nói. “Chuyến sau.” Cô cười. “Cô còn mắc cái nhà.” Nụ cười ấy làm tôi muốn đứng bên cô thêm một lát như đứng dưới một mái hiên mát ngọt.


    Vài tháng sau, cả nhà làm giỗ ba. Lần đầu tiên kể từ ngày chị Hà trở về, tôi thấy mẹ ngủ trưa được một giấc đầy. Mùi nhang chậm rãi bước qua thềm như một người bạn cũ. Cậu Năm, người hay nóng, bữa đó cũng cười rổn rảng, nhắc chuyện ngày xưa anh Quân đá bóng văng bể cái chậu kiểng của má. Cả nhà cười. Măng chạy vòng quanh, rồi dừng lại ở chỗ bức ảnh cưới treo trên vách – bức ảnh của cô Hạnh và… không có ai bên cạnh. Bức ảnh ấy là do anh thợ ảnh chọn nhầm khung, để quên tấm cắt ghép. Cô Hạnh không tháo xuống. Cô bảo: “Đẹp mà. Đời có khi nên có một tấm hình người ta đứng một mình.” Tôi nghĩ, cô đúng.

    Khi khách khứa ra về gần hết, có một người đàn ông dừng ở cửa. Trên tay ông là một gói giấy báo bọc cẩn thận. “Nhà mình cho tôi gửi.” Ông nói, giọng khàn như người hay la sóng ngoài biển. “Cái này bà Trầm nhờ.” Tôi mời ông vào. Ông đặt gói xuống, gỡ lớp báo ra. Một cái nón lá mới. Ở mặt trong, chỗ chóp nón, bà Trầm khắc bút bi những dòng chữ nghiêng nghiêng: “Cho mái nhà trên cạn. Gió biển đã qua. Gió đồng gió nội cũng mát.”

    Tôi đưa nón cho cô Hạnh. Cô đội lên, nghiêng đầu. Cái nón vừa vặn. Cô cười, cái cười ấm đến mức tôi nghe tiếng một con chim nào đó hót trong bụng mình.


    Đến đây, tôi nghĩ câu chuyện đã khép. Nếu ai hỏi: “Một đám cưới không cưới rồi thành cái gì?” – tôi sẽ nói: thành một buổi sum họp. Thành một lần người ta dám đặt những sự thật nặng nhất xuống giữa nhà, nghe chúng rơi một cái “bịch” không dễ chịu nhưng cần. Thành một cơ hội để những người đàn bà trong nhà – mẹ tôi, cô Hạnh, chị Hà – đứng cạnh nhau như ba cái cột, chống cái mái này cho những cơn gió thổi qua mà không bật tung.

    Nhưng đời vốn thích giấu một hạt bất ngờ ở tận đáy nồi canh. Vài hôm sau, cô Hạnh gọi tôi ra sân. Cô đưa tôi một tờ giấy mỏng xíu, như một mảnh da hành. Đó là giấy đăng ký… kết hôn của cô. Tôi ngạc nhiên. “Cô…?” Cô cười xoà, lắc đầu. “Không phải với ai trong nhà mình.” Cô nhìn ra hàng rào giấy đỏ. “Là với một người ở tận bên kia biển. Người ta chờ cô lâu rồi, cô cứ khất. Hôm nay cô thấy cô có thể đi thẳng một đoạn của riêng cô được.” Tôi nhìn chữ ký của cô – nét chữ ngang dọc gọn gàng – và thấy trong lòng như có ai thắp một ngọn đèn dầu con.

    “Còn anh Quân?” Tôi hỏi. Cô nhún vai. “Anh ấy có đường của anh ấy. Ai cũng vậy. Cũng như nước, cuối cùng cũng phải tự tìm ra sông của mình.”

    Tôi gật, nghĩ đến những ngày chị Hà ngồi dạy chữ cho bọn nhỏ, đến đôi mắt Măng sáng lên khi đọc trọn một câu không vấp, đến tiếng bà Trầm cười qua sóng điện thoại. Tôi nghĩ, cái “đám cưới” hôm đó thật ra chỉ là một màn vén, để người ta thấy rõ những con đường của nhau.

    Bữa đó, trời có gió. Tôi treo chiếc nón lá bà Trầm cho lên một cái đinh cạnh cửa. Nắng xiên vào mặt trong nón, chữ bút bi mờ hẳn đi, như được ai đó thì thầm một lần nữa. Tôi nghe tiếng chị Hà từ bếp vọng ra, gọi Măng rửa tay. Tôi nghe tiếng mẹ sắp chén, tiếng cô Hạnh cột lại giàn mướp, tiếng tôi bật cười vì một chuyện lặt vặt. Tất cả những tiếng ấy, gom lại, thành một tiếng duy nhất mà nếu áp tai vào lòng, sẽ nghe rõ: tiếng nhà.

    Và nếu ai hỏi, “Người phụ nữ đặc biệt hôm ấy là ai, mà làm cả hội trường tái mặt?”, tôi sẽ kể: là người nhặt chị tôi khỏi tay nước. Là người bắc cho nhà tôi một cái cầu. Nhưng kỳ thực, có hai người phụ nữ đặc biệt: một ở ngoài biển tên Trầm, một ở trong sân tên Hạnh. Một người đưa chị tôi về, một người dựng lên một đám cưới giả để trả lại cho chị tôi một mái ấm thật. Còn lại, mọi điều chỉ là hậu quả tốt đẹp của một lần dám chọn điều đúng, dẫu phải đi qua một con đường vòng.

    Chiều buông, tôi thắp một nén nhang cho ba. Mùi huệ cũ đã phai, tôi thay bằng một bó bách hợp. Tàn nhang rụng xuống, tròn như những đồng xu lưu niệm. Tôi chắp tay, khấn một câu rất ngắn: “Nhà mình đủ người rồi, ba à.” Ở tấm kính khung ảnh, bóng tôi chồng lên bóng chị Hà, mờ mờ hai khuôn mặt. Chúng tôi nhìn nhau, không nói. Và tôi biết, từ đây về sau, có thể sẽ còn nhiều ngày gió bấc, nhưng cái mái này đã biết cách nghiêng đúng phía. Chỉ vậy thôi, cũng đủ ấm.

  • Đang “cao trào” mà nói 7 CÂU NÀY, Chị em nào cũng sướng run người –

    Dưới đây là những điều mà nàng thích nghe nhất từ đối tác trong cuộc â* ái:

    Nếu những lời nói ngọt ngào có thể đem lại sự kích thích mãnh liệt cho đối tác mà chẳng cần mất nhiều công sức, vậy thì sao không thử thì thầm khi cả hai đang ở trên chiếc giường hạnh phúc nhỉ?

    Tuy nhiên, đó nên là những lời khen ngợi thật lòng và đúng thời điểm. Chỉ cần một chút ám chỉ và khơi gợi, câu nói của bạn sẽ như một chất xúc tác kích thích ham m*** mạnh mẽ của bạn ti**.

    Những điều phụ nữ và đàn ông thích nghe thường khác nhau nhiều nhưng nói chung đều phải là những lời khen ngợi về những gì họ làm cho đối tác trong “chuyện ấy”.

    Trong khi đối với đàn ông, họ thích được khen khả năng làm t*** thì phụ nữ lại thích những lời khen về sự hấp dẫn của mình.

    Dưới đây là những điều mà nàng thích nghe nhất từ đối tác trong cuộc â* ái:

    “Anh yêu em”

    Nhiều phụ nữ nói rằng rất coi trọng khi được nghe 3 từ thần diệu: “Anh yêu em”. Thế mà ngạc nhiên thay, nhiều anh chàng chẳng bao giờ biết nói mấy từ này. Vậy lời nói không mất tiền mua, tại sao bạn không nói rằng bạn yêu cô ấy mỗi khi gần gũi?

    “Em là duy nhất của anh”

    Có thể nói câu này đúng lúc, để phụ nữ cảm nhận được địa vị và sự đặc biệt của mình trong lòng đàn ông. Đặc biệt là ở phụ nữ trung niên, đối phương chủ động bày tỏ tấm lòng khiến họ cảm thấy mình đáng quý. Tình yêu chân thành và không thay đổi của một người đàn ông có thể khiến một người phụ nữ cảm nhận được giá trị và địa vị không thể thay thế của mình.

    “Em trông thật tuyệt”

    Phụ nữ trung niên thường không tự tin vào ngoại hình của mình. Họ lo lắng mình trở nên xấu đi như béo phì, có nếp nhăn, rụng tóc… Tuy nhiên, đàn ông có thể nâng cao sự tự tin và hạnh phúc của phụ nữ thông qua những lời khen ngợi hoặc khen ngợi. Câu nói này tương đối phổ biến, nhưng nó có thể kích thích lòng tự trọng và sự tự tin của phụ nữ một cách hiệu quả, khiến họ cảm thấy vẻ đẹp của mình được công nhận và đánh giá cao.

    Anh thích vuốt ve những đường cong của em

    Đừng để nàng nghĩ rằng bạn chỉ muốn cô ấy khi lên đến “đỉnh”. Dành sự quan tâm đúng mức đến cơ thể của nàng trong màn “dạo đầu” bằng cách vuốt ve cơ thể nàng sẽ khiến cô ấy cảm thấy hạnh phúc hơn.

    Tiến sỹ Pushkhar, chuyên gia về t*** dục học, cho biết: “Đừng chỉ dành sự quan tâm đến một bộ phận cụ thể của đối tác bởi nó có thể khiến cô ấy cảm thấy mình chỉ là món đồ vật t*** dục đối với bạn. Khen ngợi hình dáng, làn da, tính cách trước rồi hãy chuyển sang khen những bộ phận cụ thể”.

    Tiếng rên rỉ của em khiến anh thực sự thích thú

    Mặc dù phụ nữ rất ngại cho bạn ti** biết mình đã đạt khoái cảm nhưng chắc chắn họ sẽ rất thích nghe chàng khen ngợi về tiếng rên rỉ của mình.

    Tiến sỹ Pushkar giải thích: “Hầu hết đàn ông đều thích phụ nữ biết thể hiện cảm xúc bằng lời nói khi ở trên giường bởi nó giúp các chàng biết họ đang đem lại sự khoái cảm cho đối tác. Bằng cách nói với nàng rằng bạn thích tiếng rên rỉ của cô ấy, bạn sẽ khiến đối tác mạnh dạn hơn trong việc biểu lộ cảm xúc của mình và điều này cũng kích thích bạn làm “chuyện ấy” tốt hơn”.

    Anh thích hôn từng centimet trên người em

    Câu nói này nghe chừng đơn giản nhưng lại rất hiệu quả. Hãy cho bạn ti** biết bạn thích cơ thể của cô ấy như thế nào và nụ hôn là cách tốt nhất để thể hiện điều đó. Trên thực tế, phụ nữ sẽ cảm thấy hạnh phúc hơn nếu được quan tâm hơn trong màn “dạo đầu” so với “phần chính”.

  • Sạc pin điện thoại có vẻ đơn giản nhưng thực tế lại có ảnh hưởng rất lớn đến độ bền của máy mà nhiều người không nhận thức được.

    Sạc pin điện thoại có vẻ đơn giản nhưng thực tế lại có ảnh hưởng rất lớn đến độ bền của máy mà nhiều người không nhận thức được.

    Không nên để pin điện thoại sạc đầy 100%. Thường thì người ta thường để pin sạc đầy hoặc thậm chí không rút khi điện thoại báo đầy. Sạc đầy 100% không tốt cho điện thoại vì hiện nay pin của điện thoại là pin Lithium-ion. Mỗi lần sạc đầy được tính là một ‘chu kỳ’ mỗi tháng một lần – bởi vì điều này sẽ hiệu chỉnh lại pin, giống như khởi động lại máy tính của bạn. Tuổi thọ của pin điện thoại sẽ giảm sau một số lần chu kỳ. Vì vậy bạn nên chỉ sạc pin đến khoảng 99% hoặc ngay khi máy báo đầy thì rút ra, không nên để điện thoại tiếp tục bị “nhồi” pin.

    Không nên sạc pin đầy 100% (Ảnh minh họa)
    Không nên sạc pin đầy 100% (Ảnh minh họa)

    Sạc pin quá lâu, đặc biệt là để qua đêm sẽ làm cho pin bị chai nhanh hơn bình thường. Nguyên nhân là khi sạc kéo dài, điện thoại có thể trở nên quá nóng, làm cho các phản ứng hóa học trong pin diễn ra mạnh hơn, gây cạn kiệt tuổi thọ của pin.

    Sạc không đúng cách như sử dụng dây sạc không đúng chuẩn, dây sạc kém chất lượng, hoặc sạc quá lâu có thể gây ra nguy cơ cháy nổ cho thiết bị. Khi sạc pin ở nhiệt độ cao trong thời gian dài, pin dễ bị quá tải điện và có thể gây ra các vấn đề như chập mạch, tăng nguy cơ hỏa hoạn và tai nạn.

    Khi sạc không ổn định do nguồn điện kém chất lượng, cổng cắm không đúng kích thước hoặc chưa được cắm đủ sâu dẫn đến chân sạc lỏng lẻo, dòng điện không ổn định và không đồng đều làm cho điện áp sạc không cân bằng, gây hao tổn pin.

    Sạc điện thoại qua đêm khiến trạng thái pin đầy năng lượng kéo dài cũng làm giảm tuổi thọ pin. Để duy trì pin trong tình trạng tốt nhất, nên sử dụng pin đến khi cạn điện hoàn toàn.

    Sạc pin điện thoại thế nào là đúng? (Ảnh minh họa)
    Sạc pin điện thoại thế nào là đúng? (Ảnh minh họa)

    Để sạc pin điện thoại đúng cách, hãy tuân theo một số “quy tắc vàng” sau đây:

    • Luôn giữ pin ở mức từ 30% đến 90% để kéo dài tuổi thọ của pin.
    • Khi pin giảm xuống dưới 50%, hãy sạc lại để đảm bảo điện thoại luôn sẵn sàng hoạt động.
    • Ngắt sạc khi pin đạt đến 100% để tránh hao mòn pin do sạc quá mức.
    • Bạn có thể sử dụng ứng dụng Phím tắt để đặt thông báo khi pin đạt đến một tỷ lệ phần trăm nhất định.
    Một số lưu ý quan trọng khi sạc điện thoại (Ảnh minh họa)
    Một số lưu ý quan trọng khi sạc điện thoại (Ảnh minh họa)

    Cũng có một vài lưu ý quan trọng:

    • Không nên sạc pin điện thoại đến 100% mỗi khi sạc. Hãy rút sạc khi pin đạt đến 100% để bảo vệ pin và thiết bị.
    • Tránh sạc điện thoại qua đêm vì điều này có thể làm nóng điện thoại và gây hại cho pin. Thay vào đó, nên sạc pin trong ngày để giữ pin và điện thoại trong tình trạng tốt nhất.
    • Bỏ thói quen vừa sạc vừa dùng điện thoại: Việc sử dụng điện thoại trong khi đang sạc có thể làm nóng máy và ảnh hưởng đến tuổi thọ pin. Ngoài ra, hành động này có thể làm giảm ổn định dòng điện vào máy, gây ảnh hưởng đến phần cứng và có nguy cơ cháy nổ, thậm chí gây nguy hiểm đến tính mạng người dùng.
    • Tránh sử dụng các loại sạc pin kém chất lượng: Việc sử dụng sạc pin hàng giả có thể dẫn đến hỏng pin và thiết bị. Hãy luôn sử dụng cáp sạc chính hãng, chất lượng để đảm bảo hiệu quả sạc tối đa.
    • Đặt điện thoại ở nơi mát mẻ khi sạc: Nên đặt điện thoại ở nơi thoáng mát, tránh ánh nắng trực tiếp và các nguồn nhiệt gần như bếp nấu để tránh làm nóng máy và tăng nguy cơ cháy nổ.
    • Đảm bảo điện ôn định: Cắm sạc vào ổ điện đảm bảo ổn định và bề mặt phẳng, cứng để dễ dàng tản nhiệt.
    • Khuyến khích sạc điện thoại nhiều lần trong ngày: Pin Lithium-ion của điện thoại hiện nay thích được sạc nhiều lần trong ngày. Hãy sạc thường xuyên để giữ pin luôn trong tình trạng tốt nhất.
    • Bật chế độ máy bay để sạc pin nhanh hơn: Khi cần sạc nhanh, hãy bật chế độ máy bay để tắt các kết nối không cần thiết và ứng dụng, giúp pin sạc nhanh hơn.
    • Mẹo lưu trữ pin: Không nên để pin cạn kiệt hoàn toàn trước khi sạc lại, hãy duy trì pin ở mức khoảng 50% nếu không sử dụng điện thoại trong thời gian dài để bảo vệ tuổi thọ của pin.

    Đó là những điều cần lưu ý để sử dụng và bảo vệ pin điện thoại hiệu quả và an toàn.

  • Con gái tôi vốn chăm chỉ và khát khao đổi đời, nên khi có cơ hội xuất khẩu lao động sang Hàn Quốc, nó chẳng ngần ngại. Ban đầu, con gửi tiền về đều đặn, gia đình tôi cũng mừng thầm

    Con gái tôi vốn chăm chỉ và khát khao đổi đời, nên khi có cơ hội xuất khẩu lao động sang Hàn Quốc, nó chẳng ngần ngại. Ban đầu, con gửi tiền về đều đặn, gia đình tôi cũng mừng thầm vì nghĩ cháu đã ổn định. Nhưng không lâu sau, nó kể rằng mình quen một người đàn ông, là chủ một tiệm gà rán lớn, tuy đã 70 tuổi và có con riêng nhưng sở hữu khối tài sản kếch xù. Con muốn kết hôn, mặc cho tôi và chồng ra sức ngăn cản.

    “Con biết người ta lớn tuổi, nhưng ông ấy tử tế và thương con. Sau này mẹ sẽ hiểu, con chỉ muốn tốt cho gia đình mình thôi.”

    Rồi nó khăn gói sang nhà người ta làm dâu, mang theo tất cả hy vọng và quyết tâm. Trước khi đi, con đưa tôi một chiếc túi đỏ nhỏ, nắm chặt tay tôi dặn:

    “Mẹ giữ cái này, nhưng hai năm nữa hãy mở. Con hứa lúc đó cả nhà mình sẽ không phải lo nghĩ gì nữa.”

    Tôi cầm chiếc túi, lòng đầy lo lắng nhưng vẫn tôn trọng quyết định của con. Từ đó, nó dường như sống một cuộc đời khác: không còn gọi điện thường xuyên, chỉ nhắn vài dòng ngắn ngủi rằng mình ổn.

    Nhưng chưa đầy nửa năm sau, một buổi chiều, tôi nhận được cuộc gọi từ Đại sứ quán Hàn Quốc. Giọng người cán bộ ngập ngừng, báo tin dữ:

    “Gia đình nên chuẩn bị sang nhận thi thể. Con gái bà bị phát hiện tử vong trong căn nhà riêng. Cảnh sát đang điều tra nguyên nhân.”

    Tôi rụng rời tay chân, chiếc điện thoại rơi xuống đất. Đến lúc hoàn hồn, tôi vội mở chiếc túi đỏ mà con đưa trước đó, như một cách tìm câu trả lời. Bên trong, không phải tiền hay tài liệu gì quan trọng như tôi nghĩ, mà là… một cuốn sổ nhật ký và một bức thư.

    Dòng chữ nguệch ngoạc trên tờ giấy như vết dao cứa vào tim tôi:

    “Mẹ ơi, nếu mẹ đọc được những dòng này, nghĩa là con đã không thể sống cuộc đời mà con mong muốn. Ông ấy không yêu con, ông chỉ cần một người phục vụ cho đến cuối đời. Căn nhà sang trọng, tài sản kếch xù đều là cái bẫy. Con muốn thoát ra nhưng không kịp. Nếu con không còn, hãy dùng nhật ký này để đòi lại công bằng cho con. Con xin lỗi mẹ…”

    Tôi run rẩy mở cuốn nhật ký. Trong đó là những dòng chữ đầy uất hận: ông ta không chỉ kiểm soát từng bước đi của con, mà còn đối xử tàn nhẫn, bắt con ký vào những giấy tờ để chuyển toàn bộ tài sản của con cho gia đình ông ta.

    Tôi ngã quỵ xuống sàn, đau đớn tột cùng. Con gái tôi – vì một giấc mộng đổi đời – đã đánh đổi cả mạng sống của mình. Nhưng tôi quyết tâm: dù thế nào đi nữa, tôi cũng phải đòi lại công bằng cho con.

  • Đến 3 độ tuổi này, phụ nữ nào đặc biệt ‘háo hức’ với đàn ông, các anh tinh ý sẽ chọn được bạn đời –

    Đến độ tuổi này, phụ nữ có khao khát, gần gũi, gắn bó với phái mạnh.

    Thiếu nữ ở độ tuổi 20

    Những cô gái ở độ tuổi 20 vừa mới bắt đầu khám phá tình yêu. Trong thời niên thiếu, họ thường bị bố mẹ cấm cản, nên chưa được tự do yêu đương.

    Đến khi bước sang tuổi 20, đa số các cô gái đã trưởng thành và cảm xúc yêu đương trở nên mãnh liệt hơn. Chính vì vậy, ở độ tuổi này, các cô gái thường đặc biệt háo hức với tình yêu. Nếu bạn nhận ra điều này và theo đuổi người mình yêu, khả năng thành công sẽ rất cao.

    Những cô gái ở độ tuổi 20 vừa mới bắt đầu khám phá tình yêu.
    Phụ nữ ở độ tuổi 30

    Khi bước sang tuổi 30, phụ nữ thường trở nên quyến rũ và thu hút hơn. Nếu đến thời điểm này mà cô ấy vẫn chưa kết hôn, có thể là do trước đây chưa gặp được người đàn ông phù hợp để xây dựng mối quan hệ lâu dài. Điều này không phải vì cô ấy không muốn yêu, mà chỉ là chưa tìm được người thích hợp.

    Tuy nhiên, với việc đã 30 tuổi, cô ấy chắc chắn phải đối mặt với áp lực về chuyện kết hôn. Vì vậy, trái tim cô ấy thường rất rộng mở. Một người đàn ông tinh tế sẽ dễ dàng khiến cô ấy cảm động và có thể tạo được sự chú ý, làm tăng khả năng thành công trong việc theo đuổi phụ nữ ở độ tuổi này.

    Khi bước sang tuổi 30, phụ nữ thường trở nên quyến rũ và thu hút hơn.
    Phụ nữ trung niên ở độ tuổi 40

    Gọi phụ nữ ở tuổi 40 là trung niên có thể không còn chính xác nữa, vì trong xã hội hiện đại, nhiều phụ nữ ở độ tuổi này vẫn giữ được vẻ đẹp, duyên dáng và sự trẻ trung.

    Phụ nữ ở độ tuổi này thường đã thành đạt trong sự nghiệp và có cách ứng xử khéo léo. Họ tỏa ra sức quyến rũ mạnh mẽ với đàn ông. Dù có thể đã trải qua những tổn thương, họ vẫn sẵn sàng mở lòng nếu gặp người thực sự yêu thương và quan tâm đến mình.

    Đối với một người phụ nữ 40 tuổi, chỉ cần bạn chăm sóc chu đáo và giao tiếp nhiều hơn trong cuộc sống hàng ngày, cô ấy sẽ dễ dàng cảm mến và dành tình cảm cho bạn.

    Gọi phụ nữ ở tuổi 40 là trung niên có thể không còn chính xác nữa, vì trong xã hội hiện đại, nhiều phụ nữ ở độ tuổi này vẫn giữ được vẻ đẹp, duyên dáng và sự trẻ trung.
    Khi theo đuổi một người phụ nữ, đừng vội vàng. Phụ nữ thường mong muốn gặp người đàn ông tinh tế và nhạy cảm trong cách cư xử. Dù có thể khao khát tình yêu, họ không dễ dàng bộc lộ ngay lập tức. Nếu bạn biết cách ăn nói khéo léo, hành động nhiều hơn và ít nói, trái tim của phụ nữ sẽ dễ dàng mở rộng với bạn.

    Theo:
    giaitri.thoibaovhnt.com.vn
    Link bài gốc
    https://www.giaitri.thoibaovhnt.com.vn/den-3-do-tuoi-nay-phu-nu-nao-dac-biet-hao-huc-voi-dan-ong-cac-anh-tinh-y-se-chon-duoc-ban-doi-846820.html
    Tác giả:Quỳnh Trang

  • Trồng khế 2 vị trí này: Trấn yểm của cải, 10 nhà làm thì 9 nhà đổi vận thành công, nghèo hóa giàu –

    Trồng Cây Khế Ở Hướng Đông Nam (Cung Tài Lộc)

    Hướng Đông Nam là cung Tài Lộc trong phong thủy, thuộc hành Mộc, rất phù hợp với đặc tính của cây khế. Trồng cây khế ở vị trí này giúp kích hoạt năng lượng tài lộc, thu hút tiền bạc và cơ hội kinh doanh cho gia chủ.

    Lý do nên trồng ở hướng Đông Nam:

    Hành Mộc tương sinh: Cây khế thuộc hành Mộc, phù hợp với hướng Đông Nam, giúp tăng cường năng lượng tích cực và thúc đẩy sự phát triển về tài chính.

    Biểu tượng của sự sung túc: Những chùm quả khế chín vàng rực rỡ tượng trưng cho sự dồi dào, thịnh vượng, mang đến may mắn và tiền tài.

    Cân bằng năng lượng: Cây khế xanh tốt giúp điều hòa luồng khí trong khu vườn hoặc sân nhà, tạo môi trường hài hòa, thu hút vận may.

    Đảm bảo cây được chăm sóc tốt, lá xanh, quả sai để duy trì năng lượng tích cực. Tránh để cây khô héo hoặc chết, vì điều này có thể gây ra năng lượng tiêu cực, ảnh hưởng đến tài lộc.

    Có thể kết hợp trồng khế với các loại cây phong thủy khác như cây kim tiền hoặc tre để tăng cường năng lượng Mộc.
    Vị trí trồng khế vô cùng may mắn giàu cóVị trí trồng khế vô cùng may mắn giàu có

    Trồng Cây Khế Ở Sân Sau Nhà (Gần Khu Vực Tụ Thủy)

    Sân sau nhà, đặc biệt là khu vực gần nguồn nước (ao, hồ, giếng hoặc bể cá), là nơi lý tưởng để trồng cây khế. Theo phong thủy, nước là yếu tố thu hút tài lộc, và khi kết hợp với cây khế (hành Mộc), sự tương sinh giữa Mộc và Thủy sẽ tạo ra luồng năng lượng mạnh mẽ, giúp gia chủ thịnh vượng và giàu có.

    Lý do nên trồng ở sân sau gần khu vực tụ thủy:

    Tương sinh Mộc – Thủy: Nước nuôi dưỡng cây cối, giúp cây khế phát triển tốt, tượng trưng cho dòng chảy tài lộc dồi dào.

    Tạo không gian hài hòa: Cây khế ở sân sau giúp che chắn, bảo vệ ngôi nhà khỏi năng lượng xấu từ phía sau, đồng thời mang lại sự yên bình và thịnh vượng.

    Biểu tượng của sự tích lũy: Quả khế sai trĩu cành ở khu vực tụ thủy tượng trưng cho sự tích lũy của cải, giúp gia chủ giàu có bền vững.

    Đảm bảo khu vực trồng cây có ánh sáng tự nhiên để cây phát triển khỏe mạnh. Tránh trồng cây quá gần nhà, gây cản trở luồng khí hoặc làm cây che khuất ánh sáng vào nhà. Nếu có bể cá hoặc hồ nước, hãy giữ nước sạch sẽ để duy trì dòng chảy năng lượng tích cực.
    Trồng khế vị trí này giàu cóTrồng khế vị trí này giàu có

    Một Số Lưu Ý Khác Khi Trồng Cây Khế Theo Phong Thủy

    Chọn cây khỏe mạnh: Cây khế cần được chăm sóc cẩn thận, không để cây bị sâu bệnh hoặc khô héo, vì điều này có thể ảnh hưởng xấu đến phong thủy.

    Số lượng cây: Nên trồng 1 hoặc 3 cây khế để tượng trưng cho sự phát triển và sinh sôi. Tránh trồng số chẵn như 2 hoặc 4 cây vì có thể mang ý nghĩa không tốt.

    Kết hợp yếu tố phong thủy: Có thể đặt thêm đá phong thủy hoặc vật phẩm trang trí như đèn lồng đỏ gần cây để tăng cường năng lượng dương.

    * Thông tin chỉ mang tính tham khảo

  • 4 ‘chỗ hiểm’ đàn bà khôn ngoan cấm tiệt đàn ông ‘sờ’ vào, kể cả chồng –

    Đây chính là những vùng cấm đàn bà khôn ngoan quyết không cho đàn ông chạm vào, kể cả chồng. Đàn bà dại nhất định phải biết.

    Đàn bà khôn ngoan sẽ luôn giữ khư khư 4 vùng cấm này cho riêng mình, ai có năn nỉ van xin vẫn quyết không cho chạm vào.

    4 chỗ hiểm đàn bà khôn ngoan cấm tiệt đàn ông 'sờ' vào, kể cả chồng - Hình 1

    Nếu đến chính bản thân mà không thương lấy mình thì sao có thể khiến người khác trân trọng mình – Ảnh minh họa: Internet

    Nhan sắc

    Đàn bà thông minh dù đã lấy chồng sinh con hay vẫn độc thân, dù mới đôi mươi hay đã qua ngưỡng tứ tuần cũng quyết không cho đàn ông đụng đến nhan sắc của mình. Họ càng không cho phép bản thân bỏ bê việc dưỡng da, chăm chút vẻ ngoài và ăn diện hợp thời.

    Dù chồng cấm đoán, có “góp ý” rằng lấy chồng rồi thì không cần phải chăm chút vẻ ngoài thì đàn bà khôn cũng bỏ ngoài tai. Cô ấy hiểu rằng, nếu đến chính bản thân mà không thương lấy mình thì sao có thể bắt người khác phải trân trọng mình.

    4 chỗ hiểm đàn bà khôn ngoan cấm tiệt đàn ông 'sờ' vào, kể cả chồng - Hình 2

    Khi vợ chồng không thể tiếp tục cuộc hôn nhân hiện tại đàn bà khôn sẽ luôn giành quyền nuôi con – Ảnh minh họa: Internet

    Con cái

    Không phải tự nhiên mà người ta có câu “đàn bà lấy chồng lãi mỗi đứa con”. Bởi suy cho cùng, vợ chồng vẫn chỉ là người dưng nước lã, chỉ con cái mới là nhúm ruột, là m.áu mủ mà đàn bà đã mang nặng đẻ đau chín tháng mười ngày.

    Đây là lý do vì sao một khi hôn nhân đổ vỡ, khi vợ chồng không thể tiếp tục cuộc hôn nhân hiện tại đàn bà khôn sẽ luôn giành quyền nuôi con. Cô ấy không muốn con phải chịu cảnh mẹ ghẻ con chồng, không muốn đ.ứa t.rẻ thiếu hơi ấm tình mẫu tử và rất sợ con bị đối xử tệ bạc.

    4 chỗ hiểm đàn bà khôn ngoan cấm tiệt đàn ông 'sờ' vào, kể cả chồng - Hình 3

    Nếu chồng không coi trọng nhà vợ, cấm cản vợ báo hiếu cha mẹ ruột thì cô ấy sẽ đòi công bằng ngay – Ảnh minh họa: Internet

    Việc làm

    Cha mẹ

    Chỉ đàn ông gia trưởng, bảo thủ mới bắt vợ phải dốc sức chăm lo cho gia đình chồng sau khi kết hôn, không được tốn t.iền phụng dưỡng, quà cáp cho cha mẹ ruột. Cũng chỉ đàn bà khờ dại mới chấp nhận yêu cầu quá quắt ấy.

    Đàn bà bản lĩnh dám yêu dám hận, nếu chồng không coi trọng nhà vợ, cấm cản vợ báo hiếu cha mẹ ruột thì cô ấy sẽ đòi công bằng ngay.

    4 chỗ hiểm đàn bà khôn ngoan cấm tiệt đàn ông 'sờ' vào, kể cả chồng - Hình 4

    Đàn bà khôn sẽ giữ khư khư công việc mà mình yêu thíchsự nghiệp mình đang gầy dựng – Ảnh minh họa: Internet

    Công việc

    Đời đàn bà, đừng bao giờ bị câu nói “ở nhà anh nuôi” dụ dỗ mà từ bỏ sự nghiệp để chấp nhận làm người vợ toàn thời gian. Một khi tự tước đi khả năng k.iếm t.iền, đ.ánh mất công việc bạn sẽ chẳng khác nào cây tầm gửi sống bám vào chồng.

    Nếu đàn bà dại thấy vui vì được chồng nuôi, thì đàn bà khôn sẽ giữ khư khư công việc mà mình yêu thích, sự nghiệp mình đang gầy dựng.

  • Rên rỉ khi “yêu”: vũ khí của đàn bà, món quà cho đàn ông –

    Trong đời sống t*** dục, âm thanh là một phần không thể thiếu. Đặc biệt, cách rên khi QH không chỉ thể hiện cảm xúc chân thật, mà còn là “ngôn ngữ không lời” giúp đối phương cảm nhận được sự kết nối, khơi dậy ham m*** và làm cho trải nghiệm trở nên mãnh liệt hơn.

    Vậy rên thế nào để tự nhiên, cuốn hút mà không bị gượng gạo? Hãy cùng tìm hiểu qua bài viết dưới đây.

    Vì sao cách rên lại quan trọng trong chuyện ấy?

    Nhiều người thường ngại ngùng khi nhắc đến âm thanh trong chuyện chăn gối, nhưng thực tế, rên rỉ đúng lúc và đúng cách không chỉ giúp bản thân giải tỏa cảm xúc mà còn khiến cuộc yêu trở nên nồng nàn hơn. Dưới đây là 3 lý do giải thích vì sao cách rên lại đóng vai trò quan trọng trong chuyện ấy:

    • Tăng khoái cảm cho cả hai: Âm thanh kích thích mạnh vào não bộ, giúp bạn và đối phương cảm thấy hưng phấn hơn rất nhiều.

    • Giao tiếp không lời: Khi bạn rên lên một cách tự nhiên, đó là tín hiệu cho thấy bạn đang tận hưởng – điều này khiến đối phương cảm thấy được ghi nhận và hào hứng hơn.

    • Tăng tính kết nối: Rên không chỉ đơn thuần là âm thanh, mà là cảm xúc – nó góp phần tạo nên một trải nghiệm gần gũi và đáng nhớ. Đặc biệt hơn là khi bạn kèm hôn sâu với chàng.

    2. Hướng dẫn cách rên tự nhiên và cuốn hút

    Dù là nam hay nữ, rên trong khi “yêu” không chỉ là phản xạ sinh lý, mà còn là cách thể hiện cảm xúc, sự kết nối và ham m***. Nhưng không phải ai cũng biết cách rên sao cho cuốn hút và tự nhiên. Nếu bạn còn đang lúng túng hoặc ngại ngùng, thì dưới đây là những cách rên giúp cuộc yêu trở nên nóng bỏng và đầy cảm xúc hơn bao giờ hết.

    2.1 Đừng cố gắng làm quá

    Một trong những sai lầm phổ biến khi tìm hiểu cách rên là bắt chước những âm thanh được cường điệu hóa trong phim ảnh. Điều này không chỉ khiến cuộc yêu trở nên thiếu tự nhiên, mà còn có thể khiến đối phương cảm thấy mất kết nối.

    Cách rên đúng nên xuất phát từ cảm xúc thật, là phản ứng cơ thể tự nhiên khi đạt đến khoái cảm – không cần phô trương, không cần gượng ép. Khi bạn thực sự thả lỏng và cho phép bản thân tận hưởng, những âm thanh phát ra một cách bản năng sẽ trở nên gợi cảm hơn bất kỳ sự giả vờ nào. Chính sự chân thật này mới là điều khiến đối phương cảm thấy được kết nối và cuốn hút thực sự.

    2.2 Bắt đầu bằng những hơi thở gấp nhẹ

    Không phải ai cũng có thể rên rỉ ngay từ đầu, nhất là với những người vốn kín đáo hoặc chưa quen với việc bộc lộ cảm xúc qua âm thanh. Cách tốt nhất để bắt đầu là tập trung vào nhịp thở. Khi cảm xúc bắt đầu dâng cao, hãy để hơi thở dẫn dắt bạn: từ nhẹ nhàng, chậm rãi cho đến dồn dập và gấp gáp hơn.

    Cách rên tự nhiên thường bắt đầu từ những tiếng thở gấp khẽ, rồi dần dần chuyển thành âm thanh rõ ràng hơn theo từng nhịp chuyển động. Việc luyện tập cách rên theo hơi thở cũng giúp bạn dần quen với việc bộc lộ cảm xúc và hòa quyện cùng bạn ti** một cách mượt mà hơn.

    2.3 Kết hợp thì thầm những câu ngắn

    Rên rỉ sẽ trở nên hiệu quả hơn nếu được kết hợp với những câu nói đầy cảm xúc. Những lời thì thầm như “em thích lắm”, “đừng dừng lại” hay “anh khiến em phát điên” không chỉ là âm thanh, mà còn là thông điệp mạnh mẽ về sự tận hưởng. Đây là một phần của cách rên gợi cảm mà không cần phô trương.

    Khi bạn phối hợp nhuần nhuyễn giữa tiếng rên và lời thì thầm, bạn đang sử dụng cách rên như một công cụ giao tiếp cảm xúc không lời, giúp bạn ti** cảm thấy được khích lệ và khao khát hơn nữa.

    2.4 Đừng quên phản ứng cơ thể

    Âm thanh là một phần quan trọng, nhưng không nên tách rời khỏi phản ứng cơ thể. Một trong những cách rên tự nhiên nhất là để cơ thể bạn phối hợp cùng âm thanh: siết nhẹ, cong người, thở gấp, hoặc run rẩy theo cảm xúc, thêm chút ướt át của gel bôi trơn. Khi âm thanh và cơ thể cùng truyền tải thông điệp, bạn đang tạo ra một trải nghiệm thực sự cuốn hút.

    Đó cũng chính là đỉnh cao của cách rên tự nhiên – không chỉ là tiếng rên đơn điệu, mà là sự kết hợp toàn diện giữa cảm xúc, âm thanh và hành động. Và từ đó, bạn mang lại cho cả hai một trải nghiệm gắn kết, thăng hoa và đáng nhớ hơn bao giờ hết.

    3. Những điều cần tránh khi rên

    Tuy nhiên, bên cạnh việc học cách rên sao cho tự nhiên và cuốn hút, bạn cũng cần lưu ý một số điều nên tránh để không biến khoảnh khắc thân mật trở nên gượng gạo hay mất hứng. Dưới đây là những sai lầm phổ biến khi rên trong lúc “yêu” mà bạn nên biết để tránh:

    • Không nên “diễn” quá lố: Điều này khiến đối phương mất tự nhiên và cảm thấy thiếu chân thật.

    • Tránh lặp lại một kiểu rên: Sự đơn điệu khiến cuộc yêu thiếu đi sự hưng phấn. Hãy linh hoạt theo cảm xúc thật.

    • Đừng ép bản thân: Nếu bạn không muốn rên – hãy im lặng. Cảm xúc chân th

  • Mẹ chồng lên chăm tôi ở cữ được 1 tháng thì nằng nặc đòi về, ngày bất chợt về quê thì tôi thấy.

    Mẹ chồng lên chăm tôi ở cữ được 1 tháng thì nằng nặc đòi về, ngày bất chợt về quê thì tôi thấy.

    Buổi sáng ấy, mưa rơi kiểu đổ bụi: những hạt nước nhỏ xíu như phấn rắc lên bậu cửa, lên tấm khăn quấn quanh chiếc nôi gỗ. Tôi ngồi trên giường, dựa lưng vào chồng gối, vạt áo cộc bị sữa loang một vòng, nghe con bé reo khẽ trong giấc, miệng mút như bọt khí bé tí bay lên mặt bể. Mẹ chồng tôi—bà Lựu—đứng bên bếp, lưng hơi còng, tay rưới nước sôi lên lá chè vằng, hơi nước bốc mùi ngai ngái ngọt, tan vào tiếng mưa đang nhặt nhạnh ngoài hiên.

    Một tháng ở cữ trôi qua như một con thuyền bơi trên mặt ao lặng: bữa cháo móng giò, bát canh rau ngót, chén nghệ hồng, nước ấm thay liên tục, khăn phơi xếp thành từng thảm trắng. Bà chăm kỹ tới mức đôi khi tôi thấy mình như một cái bình sứ đặt trong tủ kính; sờ cũng sợ rạn. Bà không nói nhiều. Thỉnh thoảng kéo tấm rèm, như người đo gió, nhìn ra cái khoảng sân lấm tấm rêu. Có một lần, tôi bắt gặp bà đứng trước lịch treo tường, tay lần lần mấy ô vuông, môi mấp máy đếm. Tôi hỏi, bà bảo: “Đếm đường mưa.”

    Buổi chiều, tôi đang dỗ con ngủ thì nghe bà gọi chồng tôi—Nam—ra hiên. Giọng bà nhỏ, nhưng thẳng như sợi chỉ:

    “Mai mẹ về.”

    Nam sững: “Mẹ, mới có một tháng… Vợ con còn yếu, con đi làm cả ngày… Mẹ ở thêm với tụi con vài bữa nữa cho nó quen nếp.”

    “Không.” Bà lắc đầu, cái búi tóc bạc rung theo. “Về.”

    “Có chuyện gì ở quê ạ?” Tôi bước ra, tay ôm con. “Hay con bé Thìn hàng xóm bữa nay đẻ?” — tôi hỏi bâng quơ, mong lôi được cái lý do hiền lành nào đó.

    Bà nhìn tôi một lúc, ánh mắt như đặt lên trán tôi một bàn tay mát: “Nó đã đẻ tháng trước, con. Mẹ… nhớ nhà. Người già, lạ chỗ không ngủ được. Ở đây lâu, gân tay mẹ cũng mỏi.”

    Nam sốt ruột: “Mẹ nói thật đi. Con đưa mẹ lên mẹ mệt thì con thuê thêm giúp việc.”

    Bà lắc đầu. “Đừng. Nhà mới nuôi cháu, đừng kéo thêm người. Mẹ về.” Bà cúi xuống nắm tay tôi, xoa xoa chỗ cổ tay gầy mới lộ ra sau mấy tuần phù nề: “Con ở nhà ăn uống, đừng kiêng dở hơi. Có gì gọi mẹ. Mẹ về.”

    Tôi cắn môi. Tôi thương bà. Nhưng cơn tủi—cái tủi vô lý của đàn bà ở cữ, lúc nào cũng như cái kim ngắn chạm vào thịt—vẫn nhói: “Vì con không biết nghe lời? Hay vì con hay tranh cãi? Con xin lỗi… Mẹ ở thêm…”

    “Không phải,” bà ngắt, giọng mềm như bột gạo khô. “Đừng nghĩ bậy. Đừng để ý kiến thành cái bẫy.” Bà quay đi, thu dọn đồ chậm rãi. Chiếc giỏ của bà—loại cói mây đan rẻ tiền—lúc đến đầy đồ cho tôi, lúc đi chỉ còn mấy bộ quần áo bông bạc phếch. Tôi nhìn, thấy lòng mình hẫng như cái ray kẹt bánh.

    Đêm đó, mưa dày lên, rơi phập phồng trên mái tôn yếu. Bà nằm với con bé đến khuya, hát đi hát lại một điệu ru tôi chưa nghe bao giờ: “Trăng lơ thơ, gió lẻ, người ngủ quên ngoài bãi sông.” Sáng sớm, bà dậy rất sớm, mặc áo mưa, kéo mũ che hết vuông trán, chẳng kịp ăn bát cháo tôi hâm. Bà dặn Nam: “Trưa nhớ cho con uống vắt sữa giữa bữa, nó đói nó quấy là đúng.” Dặn tôi: “Đừng soi cân nặng. Mỗi con chim có nhịp tăng cân riêng.” Rồi bà đi, dáng lặng lẽ như một cái bóng ngày mưa rút khỏi vũng nước.

    Căn nhà bỗng rỗng, như người ta bê đi chiếc tủ chật mà quen. Tôi nấu canh mà thiếu muối, giặt khăn mà sót xà bông. Đến tối, tôi dài cổ nghe tiếng thang máy, tưởng bà đổi ý quay lại. Không. Chỉ là ông hàng xóm mang cái nón lá bà quên, treo lên cửa, bảo: “Bà gửi lời.”

    Nam ít nói hẳn. Anh làm về muộn, ngồi ăn ít, hay lơ đãng nhìn đứa nhỏ. Có lúc anh ngồi bần thần ở ban công, ngón tay vuốt vuốt cái vết nứt trên thành lan can. Tôi cũng không dám trách. Tôi bận với ba tiếng một lần, với những cơn đau vỡ da, với những cơn khóc nằm lòng của đứa trẻ. Nhưng trong đầu, câu hỏi cứ quay như con vụ: vì sao bà về? Giỗ? Nợ? Hay một ai đó ốm mà bà không muốn chúng tôi lo? Tôi nhắn tin cho em chồng, nó trả lời lơ lửng: “Mẹ vẫn khỏe, đi chợ, nấu chè đậu đen cho xóm. Mẹ bảo ‘đừng gọi, để nó ngủ’. Mà chị đừng nghĩ linh tinh.” Đừng nghĩ linh tinh—câu đó, nói với đàn bà ở cữ, giống như bảo nước sôi đừng bốc hơi.

    Một tuần sau, con bé nổi mẩn đỏ khắp người; bác sĩ bảo “nóng trong”, “dị ứng sữa mẹ ăn”. Tôi bỏ tôm, bỏ trứng, uống mỗi nước gạo rang, người dã dượi như bùn non. Đêm nào cũng là cơn đồng ca: tiếng con khóc, tiếng máy hút sữa, tiếng mưa dậm dề. Đến một trưa, điện nhà bỗng tắt rụp, máy phun sương đứng tim, con bé nóng bừng; tôi hoảng, gọi Nam. Anh đang ở công trường tít ngoại ô, chạy về không kịp. Tôi hớt hải mặc áo, đội mưa bế con xuống dưới, gọi taxi; kéo cửa mới nhớ ví để quên. Mặt tôi nóng như ngồi trước bếp lửa.

    Tôi đứng dưới mái hiên, ôm con, nhìn bầu trời xám in lên mặt con bé cũng một màu xám. Như một phản xạ, tôi gọi cho bà Chủ quán tạp hóa dưới nhà. Bà kêu lớn: “Để bà đưa đi khám. Mà thôi… điện trên này vừa báo: đường ngập, xe không vào. Con về quê mấy bữa đi. Không khí dễ chịu. Mẹ chồng mày lo lắm mà không dám nói—tao đoán.” Bà nháy mắt: “Đi xe khách chiều nay. Tao gọi con bé bán vé giữ chỗ.”

    Chiều đó, tôi ôm con về quê, bất chợt, không báo trước. Xe khách dập dềnh qua những mảng ruộng đầy nước, những cây tre nghiêng đầu như người ngủ gật. Tôi tựa đầu vào kính, nghĩ đến cảnh bà mở cửa, ngạc nhiên, mắng “rồ dại”, rồi chép miệng lót một lớp khăn mới cho con bé.

    Tới đầu làng, trời đã sập tối. Đèn đường vàng như những hạt bắp rang lẻ loi. Nhà bà tối thui. Cổng khép hờ. Bên hàng rào, cây huệ cuối mùa còn hai cái nụ ốm o. Tôi gõ cửa. Không tiếng đáp. Tôi gọi điện. Máy bà tắt. Sột soạt sau bụi chuối, bà Năm hàng xóm đẩy cổng ra: “Con chờ bà chút. Nó đi… bệnh viện hồi chiều.”

    Tôi lạnh gáy. “Bà ốm?”

    “Không…” bà Năm kéo dài giọng, như ai kéo tấm chiếu. “Thì cũng… ờ… nó đi đều. Tuần ba bữa. Nó giấu tụi bây. Dặn tao không nói. Mà tao già rồi, quên dặn nên lại nói. Hì.” Bà chép miệng. “Đi lọc máu.”

    Tôi đứng im. Hai chữ ấy—“lọc máu”—đâm vào tai tôi như một cây kim. Chúng gợi ra một mùi chát, một tiếng máy rì rì, một màu trắng cứng của gạch men bệnh viện. Tôi nghe đầu gối mình rỗng ra, như ai mở nút một chiếc nồi áp suất, hơi nóng phả lên. “Bà… đi… từ khi nào ạ?”

    “Lâu rồi. Năm ngoái.” Bà Năm chậm rãi, bàn tay gầy xoa vào nhau như đang mài hai viên đá. “Mỗi tuần ba buổi. Có đợt mưa to, nó đi sớm hơn. Có đợt bão, nó xin đổi. Lần ra thành phố chăm con cữ—nó xin nghỉ một tháng… Không được. Ở quê này đâu có máy dư—kẹt lắm. Nó xin dồn… không dồn được. Chỉ đổi giờ. Tuần đầu nó đi đêm, bắt xe cuối ngày lên huyện, lọc ca khuya. Vô xong, nó nằm ghế nhựa tới sáng, bắt xe về, nấu cháo, tắm cho cháu, giặt khăn… Vậy đó. Thấy nó sao mà thắt lòng.”

    Tôi bấu vào cánh cổng. Gió thổi qua tán cau làm tiếng lá đánh vào nhau lạt xạt. Tôi nhìn xuống con bé trong tay—nó đang ngủ, mồ hôi trên trán lấm tấm như hạt muối. Tôi hôn lên trán nó, rồi ngẩng lên, bảo với bà Năm như thề thốt: “Con vào bệnh viện.”

    Bệnh viện huyện nhỏ, đèn sáng dải dài như những con cá trắng. Phòng thận nhân tạo nằm tận cuối dãy. Tiếng máy “tíc tic” đều đặn; mùi cồn sát khuẩn lẫn mùi mưa ẩm. Những hàng ghế nhựa xếp như hàng ghế xem phim rẻ. Tôi đi chậm, sợ nhìn vào những cánh tay có dây, sợ một khuôn mặt tôi thương đang nằm đâu đó. Rồi tôi thấy bà—mẹ chồng tôi—trên giường góc, tay trái có đường mạch chạy lồ lộ như một con giun to, một ống nối đỏ thẫm sẫm lại khi qua bộ lọc, trở về cánh tay bên kia. Bà nhắm mắt, môi mím, mặt trắng hồng như vừa phơi nắng.

    Tôi bỗng thấy nước mắt mình rơi trước khi kịp quyết định. Tôi ngồi xuống ghế bên, đặt con bé nằm vào cái nôi xách tay, kéo chăn mỏng che chân nó. Tiếng bà Năm thì thào với cô y tá: “Con dâu nó… bất chợt về.”

    Một lát, bà mở mắt. Cái nhìn đầu tiên không phải nhìn tôi, mà là nhìn con bé. Bà cười rất nhẹ, đôi nếp nhăn bên mắt nhảy lên như hai con cá con. Rồi bà nhìn tôi. Chúng tôi nhìn nhau—hai người đàn bà cách nhau hai thế hệ, hai thân thể vừa đi qua hai kiểu đau khác nhau—và tôi hiểu ngay câu hỏi trong mắt bà: “Con đã ăn chưa? Ngủ được không? Về sao không báo?”

    Tôi không trả lời những câu đó. Tôi nói câu duy nhất có thể thốt ra: “Mẹ ơi.”

    Bà thở ra, như thở một bụi mưa. “Đừng sợ. Cái này… là máy bơm thời gian. Nó bơm cho mẹ ở lại chơi với cháu.”

    “Vậy tại sao mẹ không nói?” Tôi nghe giọng mình nứt, như gốm sành bị đổ nước nóng.

    “Đang ở cữ, đừng nghe tiếng máy,” bà nói, mắt cười. “Nhà cữ… phải nghe tiếng trẻ con thở, tiếng nước sôi, tiếng nồi cháo. Không nên cho tiếng bệnh vào. Với lại, có nói tụi bây cũng đòi đưa mẹ lên thành phố, mà lịch ở đây của mẹ mấy năm, đổi khó. Ở trên đó đông người, tiền bạc tốn… Tụi bây lại vừa sinh, nhà cũ dột, con nít tội. Mẹ về, mẹ đi đều, mẹ khỏe. Vậy tốt.”

    “Nhưng mẹ sẽ mệt.” Tôi nắm tay bà—cái tay có vết đâm kim lấm tấm, chỗ cũ, chỗ mới. “Ở đây… có ai đi với mẹ?”

    “A, có bà Năm y tá, có cô điều dưỡng dễ thương lắm. Có mấy ông già, kể chuyện như radio.” Bà khẽ nhếch môi. “Mẹ đi quen. Có mỏi thì ngủ. Người già ngủ ít. Còn tụi bây… ngủ nhiều.”

    Tôi cầm tay bà, áp lên má mình. Da bà lạnh, một kiểu lạnh làm người ta muốn lấy nước ấm đặt lên lâu hơn. Tôi tự hỏi, mình đã nhìn kỹ đôi tay này bao nhiêu lần. Đôi tay đã tháo bỉm, đã rửa những vết máu nâu của nhau thai trên tấm trải, đã luộc những cái khăn xô trắng thành bông mây. Tôi thấy xấu hổ—xấu hổ đã nghi ngờ, đã giận dỗi, đã nghĩ bà “nặng lời” bỏ về.

    Bà khẽ: “Đừng khóc. Nước mắt làm cay sữa.”

    Tôi cười, lau nhanh. “Con xin lỗi. Con… không biết.”

    “Nười nhà là vậy,” bà phẩy tay, “không biết thì hỏi. Mà nếu người ta chưa kịp nói, thì chờ. Chờ lâu quá thì… đi về, đừng báo.” Bà nháy mắt. “Bất chợt như con về hôm nay, mẹ vui.”

    Tôi ngó quanh. Cái vali của bà nằm dưới gầm giường, mở hé. Tôi thấy trong đó một hộp sắt nhỏ, loại hộp kẹo cũ. Tôi kéo ra, mở. Bên trong là một cuốn sổ tiết kiệm—tên người thụ hưởng: “bé Hân” (con tôi). Số tiền không nhiều, nhưng các dòng nộp đều, tháng nào cũng có, ghi chú bằng bút bi tím: “Bỉm—sữa—tiền chích ngừa”. Kẹp giữa sổ là một bức ảnh cũ, giấy đã ngả vàng: ảnh đôi bông tai vàng tây nhỏ xíu, chụp đặt trên tờ báo. Mặt sau viết: “Bán—3 chỉ—trừ tiền viện phí, dư 2 triệu gửi cháu.”

    Tôi cầm cuốn sổ, bàn tay run. Bà nhìn, cười: “Đừng nói với thằng Nam. Nó tự ái. Đàn ông… hay tự ái mấy chữ như ‘nuôi vợ con’. Để khi nào nó khỏe, nhà hết dột, mình đưa cho nó, bảo ‘tiền cháu nhặt được ở gốc cau’, vậy thôi.”

    Tôi bật cười qua nước mắt. “Mẹ…” Tôi không biết phải dùng từ gì cho đúng. Cảm ơn? Xin lỗi? Thương? Tất cả đều bé. Tôi đặt cuốn sổ lại, đóng hộp, đặt vào tay bà. Bà đẩy lại: “Cất đi. Gần cháu. Mẹ mà quên thì con còn nhớ.”

    Một cô điều dưỡng đi vào, tươi cười: “Bà Lựu cho cháu xem cháu ngoại.” Bà đưa tay vẫy: “Lại đây, Hân.” Tôi bế con lên. Nó he hé mắt, nhìn mớ dây, nhìn mặt bà, nhìn chiếc khẩu trang, rồi thở ra một bọt khí nhỏ bằng tiếng “ư”—như đồng ý.

    Ầm! Tiếng sấm dội xa. Tôi ngước nhìn khung cửa sổ hẹp, thấy mưa trải đều như một màn trướng mỏng. Tôi ngồi xuống, kể cho bà nghe những chuyện vụn: con bé nấc thế nào, cái bình nước tắm rửa ra sao, Nam bế con vụng thế nào. Bà nghe, mắt sáng như vừa nhặt được con ốc nhỏ trong mớ cát. Bà nói xen một câu: “Ở bếp, đừng để muôi gỗ ngâm nước lâu.” Lại thêm câu: “Đồ con nít, phơi đến khi ‘đen’ nắng thì mới thôi.” Tôi ghi nhớ từng chữ, như học một bài mới.

    Ca lọc kết thúc. Cô điều dưỡng rút kim, băng bông. Bà ngồi dậy, chậm rãi như người đứng sau một chuyến đò. Tôi dìu bà. Bà xua tay: “Mẹ tự đi được. Con bế cháu kẻo trơn.” Bà bỗng dừng, nhìn tôi: “Tối nay… ngủ lại với mẹ không?”

    Tôi gật. Bà Năm mừng rỡ: “Vậy tao về nấu cháo đậu xanh.” Bà cười, “món này bà Lựu mê.”

    Đêm đó, tôi và con trải tấm chăn bông ở căn phòng nhỏ sau nhà bà. Mùi lá bưởi khô bà treo trong tủ thơm thoảng như một ký ức sạch. Bà đặt cái đồng hồ báo thức lúc 3h30 sáng—mai bà lại đi. Tôi bảo: “Mẹ để con đưa đi.” Bà gật, “ừ.”

    Sáng, trời chưa kịp định hình mà đã rạng từ trong những giọt sương. Tôi bế con, Nam vừa chạy về tới—bùn đất còn bám ở gấu quần, mắt thâm. Anh nhìn thấy bà, suýt lao vào ôm mà sợ vướng tay bà, dừng ở khoảng cách một bước. Bà nhìn anh, cười: “Đi theo đuôi vợ được đó.”

    Nam không nói. Anh đứng thẳng, chào mẹ như chào một vị thủ trưởng cũ, rồi cúi xuống, nói như sợ ai nghe: “Con xin lỗi.”

    Bà phẩy tay, cười. “Xin với chả lỗi. Đi. Mẹ trễ.”


    Từ hôm đó, lịch nhà tôi thay đổi. Thứ hai, tư, sáu—bảy giờ, chúng tôi gọi video cho bà—nếu bà đang ở viện, nhìn bà giơ ngón tay cái, cười. Cuối tuần, hoặc chúng tôi đưa con về, hoặc đưa bà lên. Nam chạy vạy khắp nơi chuyển được lịch vài tuần một lần lên bệnh viện tuyến trên gần thành phố—cho bà đỡ đi lại. Bà cằn nhằn: “Tốn kém.” Tôi dán một dải băng vàng mỏng ngang ngạch cửa nhà bà, ghi nhỏ: “Đứng lại mười hơi trước khi giận người nhà.” Bà cười khì: “Con gái phố thị bày trò.”

    Một buổi chiều, tôi nói với bà: “Mẹ ơi, con cứ nghĩ mãi… sao mẹ nằng nặc đòi về đúng tròn một tháng?” Bà nhìn ra vạt mướp sau hè, các sợi tua hoa rung rinh: “Vì đúng tháng đó, lịch của mẹ chuyển từ ca đêm sang ca sáng lại. Ca đêm mẹ chịu được một tháng thôi. Đi đêm nhiều—cái lưng nó nhói. Mẹ ở thêm, mẹ sợ không đi nổi, lại vỡ lịch.” Bà quay vào, nheo mắt: “Với cả, tháng ấy là giỗ ông ngoại thằng Nam. Không về, người ta nói mẹ… bỏ gốc. Mẹ thì không sợ miệng đời, nhưng sợ hồn người khuất tủi.”

    Tôi gật. Những mảnh ghép rời rạc—lịch bà đếm, chiếc túi cói nhẹ bỗng, câu “đừng để ý kiến thành cái bẫy”—bỗng nối nhau thành một đường. Tôi bảo: “Mẹ nói ‘đừng cho tiếng bệnh vào nhà cữ’—con nhớ câu ấy. Nhưng nếu có một ngày… tiếng bệnh vào, con xin phép mở cửa, mời nó uống chén nước. Cho nó ngồi một lát, nghe nó kể. Rồi tiễn nó.”

    Bà cười. “Kể cả lú lẫn, con nói vẫn hay.”


    Một năm sau, con bé biết gọi “bà” rõ một chữ. Nó đứng ở thềm, vỗ tay, bà cười to, nếp nhăn xô lại như một tấm khăn mộc. Chúng tôi làm bữa tiệc nhỏ trên sân: nồi cháo gà, đĩa rau luộc, dưa muối, một chiếc bánh bông lan nở đều, chữ “1” vẽ thẳng, không run. Duy—giờ đã bồng con trai—ghé qua, ôm bà: “Mẹ khỏe chứ mẹ?” Bà tặc lưỡi: “Khỏe như… máy lọc.” Cả sân cười.

    Đêm, bà đưa cho tôi một phong thư, bảo: “Đọc khi… con giận ai.” Tôi mở. Trong đó là một tờ giấy nhăn, viết những dòng không thẳng: “Con gái, nếu mẹ bỏ đi đúng một cái ngày con muốn giữ, hãy nghĩ—có thể đó là ngày mẹ chạy đi giữ một cái khác không ai nhìn thấy. Mỗi người cầm một đầu dây. Đừng kéo mạnh quá. Dây đứt, tay rớm máu, mà nút vẫn lì.”

    Tôi gấp lại, áp lên tim. Tôi nghĩ về buổi sáng mưa một tháng sau sinh, khi bà bỏ đi, tôi ôm con khóc xót như bị ai nhéo tai. Tôi nghĩ về đêm ở bệnh viện huyện, tiếng máy êm, da bà lạnh, nụ cười bướng. Tôi nghĩ về cuốn sổ tiết kiệm ghi “bỉm—sữa—tiền chích ngừa”. Tôi rùng mình vì biết: có những bản thảo của yêu thương người lớn tuổi viết rất xấu, rất rối, nhưng đọc kỹ, chữ nào cũng ngay hàng.

    Nếu phải kể lại cho ai đó câu chuyện của mình, tôi sẽ kể úp mở như sau: “Mẹ chồng tôi lên chăm tôi ở cữ được một tháng thì nằng nặc đòi về. Tôi với chồng níu không được. Tôi giận, nghĩ đủ thứ. Cho tới khi tôi bất chợt về quê, thấy mẹ nằm dưới ánh đèn bệnh viện, tay nối với một cỗ máy—một cỗ máy bơm thêm cho chúng tôi những buổi chiều choàng khăn tắm thơm, những sáng con tôi gọi ‘bà’ thành tiếng, những bữa cơm giản dị có nụ cười không đứt.”

    Cái kết bất ngờ nhất ư? Không phải là bệnh, cũng không phải là cuốn sổ tiết kiệm. Mà là việc từ hôm ấy, mỗi khi nhà tôi có người muốn rời đi, tôi đều hỏi: “Con sẽ giữ nhà cho ai?” Và nếu câu trả lời là “cho chính người vừa đi đó”—tôi mỉm cười, mở cửa, đưa chiếc áo mưa cũ, và dặn: “Về nhớ kể.”

  • Nghe tin vợ cũ lấy chồng không là/nh lặ/n, tôi lái xe sang tới ch//ế gi///ễu, vừa nhìn thấy chú rể tôi về ôm gối kh/óc cả đêm…

    Nghe tin vợ cũ lấy chồng không là/nh lặ/n, tôi lái xe sang tới ch//ế gi///ễu, vừa nhìn thấy chú rể tôi về ôm gối kh/óc cả đêm…

    Nghe tin vợ cũ lấy chồng không là/nh lặ/n, tôi lái xe sang tới ch//ế gi///ễu, vừa nhìn thấy chú rể tôi về ôm gối kh/óc cả đêm…

    Tôi tên là Hùng, ba mươi hai tuổi, chủ một gara ô tô nhỏ ở quê. Ba năm trước, tôi và Lan ly hôn. Cô là người phụ nữ hiền lành, chịu thương chịu khó, nhưng tôi thì lại coi thường điều đó. Khi bắt đầu có tiền, có bạn bè tung hô, tôi thấy cô trở nên “quê mùa, nhạt nhẽo”, và nghĩ rằng mình xứng đáng với người khác tốt hơn.

    Ngày Lan thu dọn đồ rời khỏi nhà, cô chỉ nói một câu:
    – Anh sống sao cho đừng ân hận là được.
    Tôi cười nhạt, nghĩ cô chỉ nói cho có. Nhưng đời đúng là lắm bất ngờ.

    Ba năm sau, trong một lần ngồi cà phê với đám bạn, tôi nghe tin Lan sắp lấy chồng.
    Thằng bạn thân hất cằm:
    – Nghe đâu chồng nó là người tàn tật, đi xe lăn đấy.
    Tôi cười khẩy, nâng ly cà phê lên:
    – Nó mà lấy được ai chịu cưới thì đúng là phép lạ.

    Mấy thằng bạn hùa vào cười, bảo tôi nên đến “chúc mừng” cho vui. Lòng tôi lúc đó đầy kiêu ngạo và ganh tị. Một phần vì tự ái, phần khác là muốn chứng minh rằng: Không có tôi, cô ta chẳng là gì cả.

    Ngày cưới, tôi lái chiếc ô tô bóng loáng đến nhà gái. Cổng rợp hoa, người ra kẻ vào tấp nập. Tôi cố tình đỗ xe ngay trước sân, mở nhạc lớn, bước xuống trong bộ đồ hàng hiệu. Ánh mắt mọi người nhìn tôi, nửa ngạc nhiên, nửa khó chịu.

    Lan bước ra trong chiếc váy cưới giản dị. Cô gầy hơn trước, nhưng ánh mắt lại sáng và bình yên đến lạ. Bên cạnh cô là chú rể – đúng như lời đồn, anh ta ngồi xe lăn, hai chân gầy yếu. Tôi nhếch môi cười, bước đến chào như người “trên cơ”:
    – Chào Lan. Lâu rồi không gặp. Không ngờ em cưới nhanh vậy.

    Cô mỉm cười nhẹ:
    – Cảm ơn anh đã đến. Đây là Minh, chồng em.

    Người đàn ông ấy quay sang tôi, chìa tay:
    – Chào anh, tôi nghe Lan kể về anh. Cảm ơn anh đã từng là một phần trong cuộc đời cô ấy.

    Giọng anh trầm, ánh mắt chân thành. Tôi định buông lời mỉa mai, nhưng không hiểu sao cổ họng nghẹn cứng.

    Một lát sau, tôi thấy Minh cẩn thận chỉnh lại váy cưới cho Lan, rồi nói nhỏ:
    – Em ngồi xuống nghỉ chút đi, anh sợ em mệt.
    Lan cười, đặt tay lên vai anh:
    – Em khỏe, anh đừng lo.

    Khoảnh khắc ấy, không khí xung quanh như chậm lại. Tôi chợt nhận ra, trong ánh mắt họ không có chút thương hại, chỉ có tình yêu thật sự.

    Tôi lùi ra ngoài, nghe người hàng xóm thì thầm kể:
    – Anh Minh bị tai nạn khi cứu người trong vụ cháy. Sau đó mất đôi chân. Cô Lan làm ở trung tâm phục hồi chức năng, chính cô giúp anh tập đi, rồi hai người thương nhau.

    Tôi đứng chết lặng.
    Tôi từng nghĩ Lan yếu đuối, không dám sống khác tôi. Nhưng hóa ra, cô lại đủ mạnh mẽ để bắt đầu lại từ đầu, đủ bao dung để yêu một người dù anh ấy không thể bước đi.

    Tiếng nhạc cưới vang lên. Mọi người vỗ tay chúc phúc. Minh nắm tay Lan, ánh mắt anh rạng ngời như thể cả thế giới này chỉ còn mỗi cô. Còn tôi – kẻ tưởng mình thắng cuộc – lại thấy tim mình nhói lên.

    Tôi rời đám cưới lặng lẽ, chẳng nói với ai lời nào. Trên đường về, tiếng cười nói trong đầu dần lịm đi, chỉ còn lại khoảng trống khó tả. Tôi tự hỏi: Tại sao mình lại thấy đau?

    Đêm đó, tôi nằm một mình trong căn nhà lạnh. Những hình ảnh cũ ùa về – bữa cơm cô nấu, chiếc áo cô từng vá cho tôi, lời nhắc “Anh đừng uống nhiều nữa nhé”… Tôi từng hất đi tất cả chỉ vì nghĩ mình xứng đáng với thứ “tốt hơn”.

    Giờ đây, nhìn người đàn ông ngồi xe lăn vẫn khiến Lan cười hạnh phúc, tôi mới hiểu:
    Tôi từng có được tất cả, nhưng lại ngu ngốc tự tay đánh mất.

    Tôi bật điện thoại, vô thức vào trang cá nhân của cô. Ảnh cưới vừa đăng, caption đơn giản:

    “Hạnh phúc không cần hoàn hảo, chỉ cần đúng người.”

    Nước mắt tôi rơi lúc nào chẳng hay. Tôi ôm gối, ngồi thừ nhìn lên trần nhà, lòng đau đến nghẹt thở.

    Không phải vì ghen, mà vì tôi nhận ra: Người tàn tật thật sự không phải anh ta, mà là tôi.
    Tôi có đôi chân khỏe mạnh, nhưng lại để trái tim mình què quặt vì kiêu ngạo và ích kỷ.

    Sau đêm ấy, tôi bắt đầu thay đổi. Tôi thôi khoe mẽ, thôi cười cợt người khác. Tôi tham gia làm thiện nguyện, giúp đỡ trung tâm phục hồi chức năng nơi Lan từng làm. Mỗi lần nhìn những người ngồi xe lăn cố gắng từng bước, tôi lại thấy xấu hổ vì những năm tháng mình sống vô nghĩa.

    Một lần, tôi tình cờ gặp lại Lan ở siêu thị. Cô vẫn hiền như xưa, chỉ khác là ánh mắt rạng rỡ hơn. Cô nói:
    – Thấy anh sống tốt là em mừng rồi.
    Tôi mỉm cười, không nói gì thêm.

    Tối đó, tôi lái xe về nhà, mở cửa sổ nhìn bầu trời sao. Lần đầu tiên sau nhiều năm, tôi thấy lòng bình yên.

    Có lẽ, trong cuộc đời này, không phải ai đi sau cũng là kẻ đến muộn.
    Và đôi khi, để học được cách yêu đúng, ta phải trả giá bằng cả một đời ân hận.