Danh mục: Chưa phân loại

  • Con dâu bận đi công tác, để cháu cho bà nội trông, trở về thấy nhà cửa vẫn ngăn n ắ p, cháu ngủ ngon, nhưng mở tủ lạnh ra thì mẹ trẻ bỗng gào khóc ng ấ t lịm

    Chị Hạnh lấy chồng muộn, 6 năm chạy chữa khắp nơi mới sinh được cậu con trai đầu lòng. Bởi vậy, đứa bé là “báu vật” của cả gia đình, đặc biệt là với vợ chồng chị.

    Một lần, công ty cử chị đi công tác đột xuất 3 ngày. Ban đầu chị định đưa con đi cùng, nhưng chồng khuyên:

    “Có bà nội ở nhà, để bà trông cho, em yên tâm đi làm.”

    Thấy mẹ chồng tỏ vẻ vui vẻ, nhiệt tình nhận trông cháu, chị cũng xuôi lòng.

    Ba ngày công tác trôi qua, chị trở về. Căn nhà quen thuộc vẫn ngăn nắp, gọn gàng. Trong phòng, con trai đang ngủ ngoan trong nôi, hơi thở đều đều, khuôn mặt hồng hào. Mẹ chồng ngồi cạnh, vừa quạt vừa khe khẽ hát ru. Nhìn cảnh tượng ấy, tim chị như tan chảy vì hạnh phúc, nghĩ bụng “may mắn có bà”.

    Chị Hạnh bước xuống bếp dọn đồ, mở tủ lạnh để cất thực phẩm mang về. Và rồi…

    Cánh cửa tủ vừa bật ra, chị sững sờ, cả người run lên bần bật. Bên trong, ngăn trên cùng là hàng chục hộp thủy tinh được xếp ngay ngắn. Mỗi hộp đều dán nhãn ghi ngày tháng cẩn thận. Trên nắp, nét chữ của mẹ chồng hiện rõ: “Sữa của H…”, “Sữa của M…” – đó là tên đứa con trai chị.

    Chị hoảng hốt, mở nắp một hộp ra, mùi tanh nồng xộc thẳng vào mũi. Tim chị nghẹt thở, mọi thứ trước mắt tối sầm lại. Chị gào khóc, ôm ngực rồi ngã quỵ ngay dưới nền gạch lạnh ngắt.

    Trong phòng, con trai vẫn ngủ say, không hề biết sóng gió khủng khiếp vừa ập xuống gia đình nhỏ của mình.

    Câu hỏi rợn người dội lên trong đầu chị:

    “Mẹ chồng đã làm gì với chính giọt máu của con đây trời ơi…?”

    Chị Hạnh lấy chồng muộn, 6 năm chạy chữa khắp nơi mới sinh được cậu con trai đầu lòng. Bởi vậy, đứa bé là “báu vật” của cả gia đình, đặc biệt là với vợ chồng chị.

    Một lần, công ty cử chị đi công tác đột xuất 3 ngày. Ban đầu chị định đưa con đi cùng, nhưng chồng khuyên:

    “Có bà nội ở nhà, để bà trông cho, em yên tâm đi làm.”

    Thấy mẹ chồng tỏ vẻ vui vẻ, nhiệt tình nhận trông cháu, chị cũng xuôi lòng.

    Ba ngày công tác trôi qua, chị trở về. Căn nhà quen thuộc vẫn ngăn nắp, gọn gàng. Trong phòng, con trai đang ngủ ngoan trong nôi, hơi thở đều đều, khuôn mặt hồng hào. Mẹ chồng ngồi cạnh, vừa quạt vừa khe khẽ hát ru. Nhìn cảnh tượng ấy, tim chị như tan chảy vì hạnh phúc, nghĩ bụng “may mắn có bà”.

    Chị Hạnh bước xuống bếp dọn đồ, mở tủ lạnh để cất thực phẩm mang về. Và rồi…

    Cánh cửa tủ vừa bật ra, chị sững sờ, cả người run lên bần bật. Bên trong, ngăn trên cùng là hàng chục hộp thủy tinh được xếp ngay ngắn. Mỗi hộp đều dán nhãn ghi ngày tháng cẩn thận. Trên nắp, nét chữ của mẹ chồng hiện rõ:

    “Sữa của H…”, “Sữa của M…” – đó là tên đứa con trai chị.

    Chị hoảng hốt, mở nắp một hộp ra, mùi tanh nồng xộc thẳng vào mũi. Tim chị nghẹt thở, mọi thứ trước mắt tối sầm lại. Chị gào khóc, ôm ngực rồi ngã quỵ ngay dưới nền gạch lạnh ngắt.

    Trong phòng, con trai vẫn ngủ say, không hề biết sóng gió khủng khiếp vừa ập xuống gia đình nhỏ của mình.

    Câu hỏi rợn người dội lên trong đầu chị:

  • Hết lòng chăm sóc mẹ vợ lúc đ:a:u ố:m, con rể bất ngờ đ:ổi đ:ời nhờ tờ 50 ngàn bà để lại trước khi m:ất

    Hết lòng chăm sóc mẹ vợ lúc đ:a:u ố:m, con rể bất ngờ đ:ổi đ:ời nhờ tờ 50 ngàn bà để lại trước khi m:ất

    Hết lòng chăm sóc mẹ vợ lúc đ:a:u ố:m, con rể bất ngờ đ:ổi đ:ời nhờ tờ 50 ngàn bà để lại trước khi m:ất

    Con rể hết lòng chăm sóc mẹ vợ lúc đau ốm (Ảnh: minh họa)

    Anh Minh, một người con rể hiền lành và chu đáo, luôn hết lòng chăm sóc mẹ vợ khi bà đau ốm. Những ngày cuối đời, bà cụ yếu đi rõ rệt nhưng vẫn giữ nụ cười ấm áp trên môi, thường nói với anh rằng: “Con sống có tình có nghĩa, trời sẽ không phụ con đâu.”

    Ngày bà ra đi, gia đình lặng lẽ dọn dẹp đồ đạc của bà. Trong một chiếc hộp gỗ cũ, anh Minh tìm thấy một tờ 50 ngàn được gói gọn trong tấm khăn tay, cùng với một mảnh giấy nhỏ bà để lại: “Minh, đây là món quà nhỏ mẹ giữ lại để tặng con. Cầm lấy tờ tiền này, đi làm điều gì đó con thật sự muốn, mẹ luôn tin con sẽ thành công.”

    Dù không hiểu ý nghĩa sâu xa của tờ tiền, anh Minh vẫn cẩn thận giữ lại. Sau nhiều đêm suy nghĩ, anh quyết định dùng số vốn tiết kiệm ít ỏi cùng niềm tin từ tờ tiền ấy để mở một quán ăn nhỏ, nơi anh từng mơ ước. Ban đầu, việc kinh doanh gặp không ít khó khăn, nhưng nhờ sự kiên trì và tấm lòng chân thành, quán của anh ngày càng đông khách.

    Không lâu sau, quán ăn trở thành một địa điểm nổi tiếng trong khu vực, mang lại nguồn thu nhập ổn định. Mỗi lần nhìn vào tờ 50 ngàn được lồng khung treo ở quán, anh Minh lại nhớ về người mẹ vợ yêu thương và lời dặn dò đầy ý nghĩa.

    Anh thường nói: “Sự đổi đời này không đến từ tiền bạc, mà từ tình yêu và niềm tin mẹ vợ đã dành cho tôi.”

  • Cảnh báo từ Bệnh viện K: Ăn loại thịt này mỗi ngày có thể tăng nguy cơ ung thư – Đừng chủ quan! –

    Theo các  bác sỹ tại  Bệnh viện K, thịt đỏ và thịt chế biến sẵn không chỉ làm tăng nguy cơ gây nên ung thư đại trực tràng mà còn khiến cơ thể dễ mắc các loại UT nguy hiểm khác như: UT thực quản, phổi, tuyến tụy, nội mạc tử cung và UT dạ dày.

    Theo Cafebiz.vn dẫn thông tin từ Trung tâm dinh dưỡng lâm sàng Bệnh viện K, theo nghiên cứu bởi Quỹ Nghiên cứu Ung thư Thế giới (WCRF), tiêu thụ nhiều thịt đỏ chưa qua chế biến và thịt chế biến sẵn làm tăng nguy cơ UT đại trực tràng. Cụ thể, cứ tăng 50g tiêu thụ thịt chế biến sẵn hàng ngày làm tăng nguy cơ gây UT lên 18%; tăng 100g tiêu thụ thịt đỏ chưa chế biến hàng ngày tăng nguy cơ UT lên 17%.

    Cụ thể, nitrit hoặc nitrat được thêm vào thịt để bảo quản có thể làm tăng tiếp xúc ngoại sinh với nitrosamine, hợp chất N-nitroso và tiền chất của chúng. Chế độ ăn uống chứa hợp chất N-nitroso có liên quan đến nguy cơ UT, đặc biệt là UT đường tiêu hóa.

    Chẳng hạn, trong nghiên cứu EPIC-Norfolk, lượng N-nitrosodimethylamine làm tăng nguy cơ UT đường tiêu hóa lên 1,13 lần, đặc biệt là UT trực tràng lên 1,46 lần.

    Lượng muối cao trong các loại thịt chế biến sẵn cũng được coi là một yếu tố gây nguy cơ UT dạ dày. Ăn nhiều muối có thể làm hỏng niêm mạc dạ dày, tăng hình thành hợp chất N-nitroso nội sinh, tương tác hiệp đồng với các chất gây UT dạ dày và làm tăng sự xâm nhập của vi khuẩn Helicobacter pylori.

    Cứ tăng 50g tiêu thụ thịt chế biến sẵn hàng ngày làm tăng nguy cơ gây UT lên 18%

    Sắt haem trong thịt đỏ có thể dẫn đến stress oxy hóa, do đó có thể làm tăng quá trình peroxy hóa lipid, dẫn đến biến đổi protein và tổn thương ADN. Ngoài ra, sắt trong haem cũng làm tăng sự hình thành hợp chất N-nitroso nội sinh vì trong thịt đỏ có thể dễ dàng bị nitro hóa và hoạt động như một tác nhân nitro hóa.

    Dựa trên kết quả của nhóm thuần tập Điều tra Triển vọng Châu Âu về Ung thư và Dinh dưỡng (EPIC), sự hình thành hợp chất N-nitroso nội sinh khi tiêu thụ thịt đỏ và thịt chế biến sẵn liên quan đến tăng nguy cơ UT dạ dày.

    Một số nghiên cứu dịch tễ học cũng đã chỉ ra mối liên quan giữa chế độ ăn uống có các amin thơm dị vòng và hydrocacbon thơm đa vòng với nguy cơ mắc các loại UT khác nhau, đặc biệt là polyp tuyến đại trực tràng và UT đại trực tràng. Do đó, Quỹ Nghiên cứu UT Thế giới đã đưa ra khuyến nghị về việc tiêu thụ thịt đỏ nên giới hạn ở mức <500g / tuần và rất ít hoặc không sử dụng  thịt chế biến sẵn để tránh làm tăng khả năng gây bệnh UT.

    Theo báo Vietnamnet, 22 chuyên viên của IRAC, cơ quan quốc tế nghiên cứu ung thư thuộc WHO, qua phân tích 800 công trình nghiên cứu đã xác nhận thịt ăn chế biến cũng nguy hại như hút thuốc lá. Công trình vừa công bố ngày 26/10 này đã gây chấn động trên toàn thế giới

    Các chuyên viên của IRAC tính ra rằng, mỗi 50 grams thịt chế biến (xúc xích, bò khô, thịt đóng hộp, hun khói) một người tiêu thụ trong một ngày có thể tăng rủi ro mắc UT ruột già lên tới 18%.

    Thịt đỏ là các loại thịt bao gồm thịt bò, lợn, cừu, ngựa và dê (Ảnh minh họa)

    Các chuyên viên lý giải, những hóa chất sử dụng trong quá trình chế biến thịt có thể tăng tỉ lệ mắc bệnh UT. Quá trình chế biến thịt với nhiệt độ cao cũng có thể tạo ra các hóa chất có khả năng gây UT. Ngoài ra, WHO cho biết các loại thịt đỏ (bao gồm thịt bò, heo, cừu, ngựa và dê) cũng có “nguy cơ tăng tỉ lệ mắc UT” nhưng bằng chứng chứng minh điều này khá hạn chế.

    Theo nghiên cứu, 2 chất hiện diện trong thịt đỏ là các amin dị vòng (HCAs) và polycyclic aromatic hydrocarbons (PAHs). Hai chất này được hình thành khi thịt đỏ được nấu dưới nhiệt độ cao như nướng, rán. Khi amin dị vòng xuất hiện, các axit amin, creatine, protein, đường sẽ phản ứng với nhau ở nhiệt độ cao làm kích hoạt tế bào UT.

    Tuy nhiên WHO nhấn mạnh rằng các loại thịt chế biến và thịt đỏ như thịt bò cũng mang lại những lợi ích sức khỏe cho con người.

    Với phạm vi rộng như vậy, công bố của WHO không chỉ gặp phản ứng của ngành công nghệ thịt và các tiệm ăn, mà còn va chạm đến văn hóa, thói quen của nhiều dân tộc. Ví dụ ở Châu Âu người dân ưa thích xúc xích và đùi heo hun khói còn Châu Á lại yêu chuộng lạp sườn và bò khô. Ở Mỹ thịt lợn muối và hot dogs (một loại đồ ăn nhanh) cũng là những món ăn quen thuộc đến trở thành truyền thống của dân tộc này.

    Công bố của IARC/WHO được nhiều giới y khoa tán thưởng, tuy nhiên cũng có nhiều chuyên gia và khoa học gia không đồng ý.

    Tại Việt Nam, thông tin này cũng gây lo lắng cho nhiều người dân. Trao đổi với PV VietNamNet, BS Phạm Thị Việt Hương, Bệnh viện K Hà Nội, cho biết, nhiều người dân hiểu sai thông tin này cho rằng cứ ăn xúc xích, thịt muối… là gây UT.

    Cách hiểu này chưa đúng, theo đó, ăn các thực phẩm thịt qua chế biến có thể tăng nguy cơ gây UT. Nói như vậy, không có nghĩa là 1 người ăn 01 cái xúc xích có chứa chất gây UT thì sẽ bị UT mà phải ăn đạt đến nồng độ nhất định mới gây bệnh.

    BS Hương cũng nhấn mạnh, thông tin này không có nghĩa là bạn cần bỏ không ăn chút thịt đỏ hay thịt đã qua chế biến nào, nhưng nếu bạn ăn nhiều thì nên giảm bớt.

    Đồng thời, trên một diễn đàn trả lời bạn đọc BS. Đoàn Lực, Bệnh viện K Hà Nội, cũng khẳng định, chế độ dinh dưỡng thích hợp có thể ngăn ngừa được UT. Theo đó, có 3 giải pháp chính để giải quyết những vấn đề dinh dưỡng có liên quan đến ung thư:

    – Duy trì cân nặng lý tưởng (tăng ít hơn 10% cân nặng lý tưởng, tăng trên 20% là nguy cơ cao mắc một số bệnh ung thư).

    – Thực hành dinh dưỡng hợp lý, khuyến khích sử dụng khẩu phần ăn đầy đủ và cân đối.

    – Chọn thực phẩm phù hợp, đảm bảo chất lượng về nguồn thức ăn, hiểu biết về chất lượng dinh dưỡng trong thành phần thức ăn đảm bảo đúng, đủ, tránh thừa chất béo có hại.

  • Ngày mẹ kế qua đời, căn nhà vang lên đủ loại tiếng xì xào. Họ hàng bảo bà thiên vị, vì để lại cho con ruột – –

    Ngày mẹ kế qua đời, căn nhà vang lên đủ loại tiếng xì xào. Họ hàng bảo bà thiên vị, vì để lại cho con ruột – tức em trai cùng mẹ khác cha của tôi – số tiền kếch xù 50 tỷ, còn tôi chỉ nhận được một căn nhà rách nát, tường vữa bong tróc, mái ngói xiêu vẹo.

    Trong ánh mắt họ, tôi là đứa con riêng bị bỏ rơi. Thậm chí, có người còn thì thầm:
    – Nó may mà được bà ấy nuôi, giờ còn đòi hỏi gì nữa?

    Tôi cười chua chát. Ừ thì, từ ngày bố tôi mất sớm, bà đã nhận nuôi tôi. Nhưng làm sao phủ nhận được sự thật: bao năm nay, bà luôn yêu thương con ruột hơn tôi. Vậy nên, khi nghe tin chia tài sản, tôi cũng chẳng bất ngờ.

    Em trai tôi, tên Nam, hả hê không giấu nổi. Trong lễ tang, nó thì thầm bên tai tôi:
    – Mày lấy căn nhà rách kia về làm gì, bán đi cũng chẳng ai mua. Tao thì có 50 tỷ, khỏi phải làm cả đời.

    Lời nó như nhát dao xoáy vào lòng. Tôi lẳng lặng ký giấy nhận căn nhà cũ, coi như một nén hương cuối cùng cho mối tình nghĩa dở dang giữa tôi và mẹ kế.

    Vài tuần sau, tôi đến xem căn nhà ấy. Nằm chơ vơ nơi ngoại ô, tường loang lổ, cửa gỗ mục ruỗng. Người ta bảo nên phá bỏ xây lại. Tôi gọi thợ đến.

    Tiếng búa đập vào tường vang lên chan chát. Đột nhiên, một anh thợ hét lớn:
    – Anh ơi, trong tường có cái gì này!

    Tôi lao tới. Sau lớp gạch cũ kỹ, hiện ra một chiếc két sắt. Tôi run rẩy, tim đập dồn. Cả đội thợ dừng lại, ai nấy há hốc mồm.

    Mất gần một giờ, tôi mới mở được két. Bên trong không phải vàng bạc, cũng chẳng có tiền mặt, mà là một xấp giấy tờ dày cùng một quyển sổ tay.

    Mở trang đầu, tôi nhận ra nét chữ quen thuộc – chính là của mẹ kế.

    “Nếu con đọc được những dòng này, nghĩa là mẹ đã rời xa. Con đừng buồn khi thấy mẹ để lại cho Nam 50 tỷ. Số tiền đó, mẹ cố tình trao cho nó, vì mẹ biết nó ham vật chất, và đó cũng là sợi dây trói buộc nó. Với con, mẹ tin con đủ mạnh mẽ để giữ bí mật này.”

    Tôi lật tiếp. Giấy tờ bên dưới là hợp đồng mua bán đất, cổ phần công ty, giấy chứng nhận sở hữu bất động sản – tổng giá trị ước tính còn lớn hơn 50 tỷ nhiều lần. Tất cả đều mang tên tôi.

    Chân tôi như nhũn ra. Hóa ra, căn nhà rách không phải phần “bị bỏ rơi”, mà chính là nơi mẹ kế giấu toàn bộ tài sản thật sự.

    Trong quyển sổ, bà viết thêm:

    “Ngày bố con mất, mẹ từng thề sẽ chăm sóc con như con ruột. Nhưng mẹ biết, cả đời này con luôn thấy mẹ thiên vị. Thực ra, mẹ phải làm vậy. Nam nóng nảy, nếu không cho nó tưởng rằng mình được nhiều hơn, nó sẽ làm liều, sẽ hận thù. Con hãy tha thứ cho mẹ. Đây là gia sản của cả gia đình, mẹ tin con sẽ biết dùng đúng cách.”

    Nước mắt tôi rơi lã chã. Bảy năm sống với bà, tôi từng nghĩ bà không thương mình. Giờ đây, từng con chữ run run cho tôi thấy một tình yêu sâu kín, âm thầm.

    Tin tức về két sắt nhanh chóng lan ra. Nam điên cuồng xông đến, gào thét:
    – Không công bằng! Sao bà ta để hết cho mày? Tao mới là con ruột!

    Tôi đưa quyển sổ cho nó đọc. Sau vài dòng, mặt nó tái nhợt. Nó quăng sổ xuống, gào khóc như đứa trẻ. Bao nhiêu năm được nuông chiều, giờ mới hiểu ra, 50 tỷ nó cầm thực chất chỉ là “phần mồi”.

    Tôi nhìn em, giọng nghẹn lại:
    – Mẹ không ghét em. Bà chỉ muốn em sống tử tế. Đừng để đồng tiền nhấn chìm mình nữa.

    Nam sụp xuống, ôm mặt. Hào quang giàu sang vụt tắt, chỉ còn lại nỗi đau thừa nhận sự thật: suốt đời nó bị mẹ “trói” bằng tiền bạc.

    Còn tôi, tôi chọn dùng tài sản kia để mở một quỹ học bổng mang tên mẹ kế, giúp những đứa trẻ mồ côi như tôi từng trải qua. Tôi muốn người đời nhớ đến bà không phải bằng hai chữ “thiên vị”, mà bằng tình thương bà âm thầm trao gửi.

    Đêm ấy, tôi thắp hương trước di ảnh. Lần đầu tiên sau bao năm, tôi gọi bà bằng tiếng “Mẹ” trọn vẹn, không vướng mắc gì nữa.

    Ngoài kia, gió lùa qua ô cửa vỡ, khẽ lay động bức màn mỏng. Tôi như nghe thấy tiếng bà mỉm cười, an yên sau tất cả.

  • Năm 1995, tại bang Texas (Mỹ), một gia đình người Việt gồm bảy thành viên bất ngờ biến mất khỏi ngôi nhà của họ, để lại duy nhất một mảnh giấy vỏn vẹn dòng chữ: “Đi thăm người thân vài ngày.

    Năm 1995, một gia đình người Việt gồm bảy thành viên sống ở ngoại ô Houston, Texas, bỗng biến mất chỉ sau một đêm. Họ để lại duy nhất một mảnh giấy viết vội:

    “Đi thăm người thân vài ngày.” Nhưng rồi không một ai quay về, cũng không ai nghe thấy tin tức gì. Căn nhà nhỏ, chiếc xe hơi cũ trong gara, và những bữa cơm dở dang trên bàn — tất cả đứng im như thể thời gian bị chặn lại. Suốt 10 năm, cộng đồng Việt kiều quanh đó không ngừng bàn tán. Cho đến một ngày, một sự tình cờ đã làm bật ra bí mật rợn người bị che giấu.

    Gia đình ông Bảy và bà Lan định cư ở Mỹ từ cuối thập niên 80. Họ có bốn người con: hai trai, hai gái, cùng bà cụ thân sinh của ông Bảy từ Việt Nam sang đoàn tụ. Ngôi nhà nhỏ ở khu ngoại ô vốn lúc nào cũng rộn ràng tiếng nói cười, mùi cơm cá kho, canh chua. Hàng xóm người Mỹ thường bảo:

    “Ngôi nhà ấy lúc nào cũng tỏa ra mùi thơm dễ chịu.”

    Ông Bảy làm công nhân hãng sửa xe, bà Lan phụ bếp cho một tiệm phở. Cuộc sống không dư dả, nhưng ổn định và đầy yêu thương. Các con đi học về thường ngồi quanh bàn ăn kể chuyện trường lớp, xen lẫn tiếng cằn nhằn của bà cụ khi thấy bọn nhỏ mải chơi hơn học.

    Mùa hè năm 1995, cả gia đình còn tham gia lễ hội Tết Trung Thu do cộng đồng người Việt tổ chức. Ai cũng thấy họ bình thường: nụ cười của bà Lan, dáng ông Bảy lúi húi phụ dựng lồng đèn, lũ trẻ chạy nhảy tung tăng. Không dấu hiệu nào báo trước biến cố.

    Rồi đến một buổi sáng, người hàng xóm tên Sarah bước sang, định nhờ ông Bảy giúp sửa cái bếp gas. Bà gõ cửa mãi không ai trả lời. Cửa không khóa, bà bước vào thì thấy căn nhà im lìm. Bàn ăn còn nguyên chén đũa, nồi cá kho chưa kịp dọn. Trên bàn gỗ nhỏ cạnh cửa có một mảnh giấy viết bằng tiếng Việt:

    “Đi thăm người thân vài ngày.” Xe hơi vẫn nằm trong gara, vali quần áo vẫn ở tủ. Cảnh sát được gọi tới, nhưng họ cho rằng đây chỉ là một chuyến đi ngắn.

    Ngày nối ngày, rồi vài tháng trôi qua. Gia đình ấy không trở lại. Bưu điện bắt đầu chất đầy thư, hóa đơn. Những lời đồn đại lan khắp cộng đồng: nào là họ trốn nợ, nào là bị bắt cóc, thậm chí có người thì thào rằng ông Bảy từng dính dáng chuyện làm ăn mờ ám. Nhưng không bằng chứng, không dấu vết. Căn nhà dần trở thành “ngôi nhà ma” trong mắt người dân quanh vùng.

    Thời gian trôi qua, căn nhà xuống cấp. Cỏ mọc cao ngập cả sân. Đôi khi có người thấy ánh đèn chập chờn bên trong, dù cửa luôn khóa. Trẻ con trong khu phố thách nhau vào sân sau, rồi hét ầm vì nghe như có tiếng bước chân trên gác.

    Năm 2005, một nhóm thanh niên gốc Việt trong cộng đồng quyết định tìm hiểu. Họ muốn chứng minh câu chuyện “ma quái” chỉ là lời đồn. Một tối mùa hè, cả nhóm mang theo đèn pin, máy quay, lẻn vào căn nhà bỏ hoang.

    Bên trong, mọi thứ phủ bụi dày, nhưng kỳ lạ là không hề có dấu hiệu bị phá phách. Trên bàn vẫn còn khung ảnh gia đình, áo khoác treo gọn gàng trong tủ. Dường như cả bảy người chỉ vừa bước ra ngoài và không bao giờ quay lại. Một trong nhóm để ý đến tờ lịch treo tường dừng lại ở tháng 6/1995 — đúng thời điểm họ biến mất.

    Khi soi kỹ dưới gầm giường, họ phát hiện một hộp gỗ nhỏ. Trong hộp có vài lá thư viết tay bằng tiếng Việt, nét chữ run rẩy. Nội dung rời rạc, nhắc đến nỗi lo sợ bị “theo dõi”, và một đoạn mơ hồ:

    “Nếu có chuyện gì xảy ra, hãy tìm dưới gốc cây sau nhà.”

    Ngày hôm sau, cả nhóm quay lại đào thử phía sau vườn. Đúng như lời nhắn, dưới lớp đất ẩm, họ tìm thấy một chiếc hộp thiếc cũ. Bên trong không phải vàng bạc, mà là một cuốn sổ tay đã úa vàng. Trang đầu tiên viết: “Chúng ta không còn an toàn. Có người biết bí mật của gia đình.”

    Tin tức lan ra nhanh chóng, khiến cộng đồng xôn xao. Người ta bắt đầu đặt câu hỏi: Gia đình ấy thực sự đã đi thăm người thân, hay đã bỏ trốn khỏi một thứ gì khủng khiếp hơn?

    Cảnh sát được mời vào cuộc lần nữa, nhưng hồ sơ cũ đã quá lâu, manh mối mờ nhạt. Cuốn sổ tay chứa nhiều đoạn viết ngắt quãng, đôi khi như mật mã, đôi khi chỉ là những dòng cầu nguyện. Có trang nhắc đến “khoản nợ máu ở quê cũ”, có trang lại ghi “kẻ bám theo bóng tối”.

    Những cụ cao niên trong cộng đồng thì thầm rằng ông Bảy từng liên quan đến chuyện vượt biên năm 1979, và có thể đã dính vào một mối thù nào đó. Người khác lại bảo, có khả năng gia đình bị lừa sang một tiểu bang khác, rồi bị giữ làm lao động chui.

    Không câu trả lời nào chắc chắn. Nhưng điều rợn người nhất xảy ra vài tháng sau khi cuốn sổ được tìm thấy. Một người trong nhóm thanh niên kia kể rằng anh liên tục nhận được cuộc gọi lạ, đầu dây chỉ có tiếng thở dài. Ban đêm, có lúc anh thấy bóng dáng một phụ nữ mặc áo bà ba trắng đứng bên cửa sổ nhà mình, rồi biến mất.

    Căn nhà nơi gia đình ấy từng sống cuối cùng bị chính quyền niêm phong, sau đó phá bỏ để xây khu thương mại. Nhưng những ai từng đi ngang vẫn nói đôi khi nghe thấy tiếng trẻ con cười vang trong gió, hoặc mùi cá kho phảng phất.

    Câu chuyện khép lại mà không có hồi kết rõ ràng. Bảy con người biến mất không dấu vết, để lại một mảnh giấy ngắn ngủi và cuốn sổ tay u ám. Mười năm sau, bí mật hé lộ chỉ càng khiến mọi thứ thêm bí ẩn. Đời thường tưởng chừng yên ả, hóa ra vẫn có những góc tối mà chẳng ai dám chạm tới tận cùng.

  • Thách cưới 500 triệu nhà trai đồng ý luôn, tân hôn l;;ật chăn nhìn chồng, tôi mới hiểu lý do

    Thách cưới 500 triệu nhà trai đồng ý luôn, tân hôn l;;ật chăn nhìn chồng, tôi mới hiểu lý do

    Trong lòng tôi đã chắc chắn gia đình Quân sẽ phủi tay quay lưng tuyên bố hủy hôn vì điều kiện quá vô lý này. Ấy thế mà chỉ sau vài phút suy nghĩ thì bố mẹ Quân và anh đã lập tức đồng ý.

    28 tuổi tôi được mai mối cho chồng. Ở vào cái tuổi đó đối với phụ nữ cũng không còn quá trẻ. Trước đó tôi cũng từng yêu hai người nhưng đều không đến được với nhau vì nguyên nhân gia đình. Bố mẹ tôi rất khó tính, tôi dẫn ai về nhà ông bà cũng tìm được điểm để chê. Dần dần họ tự ái rồi cũng kiếm cớ chia tay tôi cả.

    Cho đến khi được mai mối cho Quân, người chồng hiện tại, bố mẹ tôi mới hài lòng. Có lẽ ông bà thấy con gái cũng sắp 30 tuổi rồi, còn kén chọn nữa thì sợ rằng “già kén kẹn hom”. Chúng tôi qua lại tìm hiểu có 4 tháng thì gia đình Quân vội giục giã chuyện đám cưới.

    Vậy nhưng đến lúc hai bên trên bàn thủ tục đám cưới thì lại có một vấn đề phát sinh, đó là số tiền thách cưới bố mẹ tôi đưa ra rất cao lên đến 500 triệu đồng.

    Tôi sốc lắm, vội vã khuyên bố mẹ rằng thách cưới chỉ là thủ tục thôi, con số 500 triệu thật quá lớn đối với gia đình Quân. Tôi cũng chỉ là cô gái có chút ưa nhìn, công việc ổn định chứ không phải hoa khôi hoa hậu gì cả.

    Song bố mẹ tôi không nghe. Ông bà bảo bao công sinh thành nuôi dạy tôi nên người, bây giờ thành người nhà Quân, số tiền 500 triệu vẫn là ít. Tôi chán nản và đau khổ nghĩ ông bà muốn bán con hay sao?

    Trong lòng tôi đã chắc chắn gia đình Quân sẽ phủi tay quay lưng tuyên bố hủy hôn vì điều kiện quá vô lý này. Ấy thế mà chỉ sau vài phút suy nghĩ thì bố mẹ Quân và anh đã lập tức đồng ý.

    Điều đó chỉ có thể nói rằng Quân rất yêu tôi như những gì anh vẫn thủ thỉ thổ lộ. Mọi chuyện thống nhất xong, đám cưới được tổ chức vô cùng suôn sẻ, ai cũng vui vẻ vì được lòng mình.

    Đêm tân hôn là đêm đầu tiên của tôi và chồng. Thời gian quen nhau ngắn, anh bảo muốn giữ đến thời khắc thiêng liêng đêm tân hôn nên không hề đòi hỏi tôi trước đó. Từ phòng tắm bước ra, tôi hồi hộp lắm. Chồng thì đã nằm đắp chăn trên giường chờ vợ.

    Tôi ngượng ngùng bước lại giường. Anh nhìn tôi mỉm cười. Rồi tôi nhẹ nhàng vén chăn định nằm vào với anh. Nhưng vừa lật chăn, tôi chết sững nhìn cảnh tượng bên dưới. Chồng tôi phơi bày thân hình trần trụi, một bên chân của anh là chân giả!

    Thấy tôi đờ người hóa đá, chồng cười giải thích 2 năm trước đi làm xa anh bị tai nạn. Từ ấy mất anh ta sức lao động, nghỉ ở nhà không làm được việc gì. Tôi trân trối nhìn Quân. Hóa ra tất cả là một cú lừa!

    Thời gian quen nhau ngắn, tôi chưa kịp tìm hiểu rõ về Quân. Bình thường thấy anh ta đi khá chậm, tôi chẳng nghi ngờ gì. Thì ra là vì có một bên chân là giả! Chuyện không muốn lên giường trước đám cưới cũng vì không muốn bị bại lộ bí mật mà thôi.

    Uất ức nhất là anh ta nói với gia đình tôi hiện tại mức lương 30 triệu/tháng. Thực tế anh ta nghỉ làm từ lúc bị tai nạn, lâu nay không có thu nhập. Tôi lấy anh ta thì phải chịu trách nhiệm nuôi chồng! Anh ta bảo số tiền 500 triệu kia nhà anh ta phải bán đất tổ tiên để lại, mới có tiền cưới tôi về!

    “Đừng nghĩ tới chuyện ly hôn. Anh sẽ không đồng ý đâu. Chưa nói bố mẹ em đã cầm 500 triệu thách cưới, em nghĩ nếu bình thường thì anh chấp nhận con số vô lý ấy ư? Nếu em muốn yên ổn thì cứ sống như này đi, phải sinh 1 đứa con cho anh nữa”.

    Quân nhìn tôi rồi chồm lên muốn kéo tôi xuống giường. Tôi sợ hãi vội bỏ chạy khỏi phòng tân hôn. Nhưng tất nhiên tôi chẳng đi đâu được mà cũng không dám đi. Chuyện vỡ lở thì gia đình tôi cũng chỉ làm trò cười cho mọi người.

    Đêm tân hôn đó tôi ngủ ở phòng khác.

    Sáng ra bố mẹ chồng biết chuyện, cũng nói thẳng với tôi như những gì Quân nói. Vì món tiền thách cưới kia, tôi không thể bỏ về. Trả tiền không khó nhưng danh dự của gia đình tôi sẽ mất hết. Tôi phải làm sao đây? Lẽ nào cam chịu sống chung và sinh con cho người đàn ông tật nguyền, thất nghiệp ấy?

  • Sự thật về bức bia mộ ghi li::ệt sĩ 6 tu::ổi, hy sinh năm 1966

    Sự thật về bức bia mộ ghi li::ệt sĩ 6 tu::ổi, hy sinh năm 1966

    Bộ Nội vụ cho biết thông tin lan truyền trên mạng xã hội về một liệt sĩ 6 tuổi, hy sinh năm 1966 là không đúng sự thật.

    Cục Người có công (Bộ Nội vụ) đã có phản hồi liên quan đến việc vừa qua trên mạng xã hội xuất hiện thông tin về một “liệt sĩ 6 tuổi” ở huyện Củ Chi, TP HCM.

    Hình ảnh được đăng tải trên mạng xã hội

    Hình ảnh được đăng tải trên mạng xã hội

    Theo đó, thông tin và hình ảnh đăng trên mạng xã hội có nội dung “Chú Khá 6 tuổi hy sinh khi cùng bố mẹ đào địa đạo Củ Chi, rồi chui xuống tránh càn, cả nhà mất luôn!”. Những thông tin này kèm hình ảnh bia mộ với thông tin: Liệt sĩ Bùi Văn Khá, quê quán xã An Nhơn Tây, huyện Củ Chi (TP HCM), kèm theo thông tin người này hy sinh ngày 28-2-1966, khi mới 6 tuổi.

    Đại diện Cục Người có công cho biết không có liệt sĩ nào tên Bùi Văn Khá, hy sinh năm 1966, ở tuổi lên 6 như thông tin mà mạng xã hội lan truyền.

    Theo dữ liệu chính thức do TP HCM quản lý, chỉ có một liệt sĩ mang tên Bùi Văn Kha, sinh năm 1948, hy sinh năm 1968, hưởng dương 20 tuổi. Liệt sĩ Bùi Văn Kha quê quán xã An Nhơn Tây, huyện Củ Chi, đang được an táng tại nghĩa trang liệt sĩ huyện Củ Chi.

    Theo Bộ Nội vụ, thông tin trên bia mộ được đăng tải trên mạng xã hội và dữ liệu chính thức có sự sai lệch. Bên cạnh đó, hình ảnh bia mộ cũng có nhiều điểm không trùng khớp với thực tế tại nghĩa trang liệt sĩ An Nhơn Tây, huyện Củ Chi.

  • Công ty chồng cứ cuối tuần là tổ chức đi giao lưu văn nghệ quán hát 1 lần và cứ sau buổi đi hát là chồng chẳng thèm đ;/ụng vào tôi

    Mấy tháng nay, công ty chồng tôi cứ cuối tuần là lại rủ nhau “giao lưu văn nghệ” ở quán hát.
    Anh bảo:

    “Toàn đồng nghiệp cả, em đừng ghen vớ vẩn.”

    Tôi tin chồng. Nhưng lạ thay, cứ sau mỗi lần “giao lưu”, anh lại về muộn, người nồng mùi nước hoa rẻ tiền, và chẳng thèm đụng vào tôi.
    Tôi thấy trong lòng bất an.


    Tối qua, khi đem quần áo anh đi giặt, tôi giật mình phát hiện trong giỏ có một chiếc quần lót đỏ, loại ren mảnh chưa giặt.
    Tôi đứng sững.
    Cái quần đó chắc chắn không phải của tôi.

    Tay tôi run lên, nhưng đầu óc bỗng tỉnh táo lạ thường.
    Tôi không nói gì, không làm ầm.
    Tôi vào bếp, lấy chạt quần, sát nhẹ phần ren trong cùng cho ám mùi đặc trưng — rồi đặt lại y nguyên chỗ cũ.


    Sáng hôm sau, anh lại mặc đồ chuẩn bị đi làm.
    Vừa thấy tôi, anh còn cười hề hề:

    “Chiều nay công ty lại đi hát nhé, em đừng giận nha.”

    Tôi mỉm cười:

    “Anh cứ đi đi, hát vui nha.”

    Tối hôm đó, tôi ngồi trong nhà, điện thoại im lìm.
    Khoảng 11h đêm, điện thoại reo.
    Là số lạ.
    Giọng một người phụ nữ nức nở:

    “Chị ơi… chồng chị… anh… đang cấp cứu trong bệnh viện. Em chỉ biết số chị vì trong ví anh có ảnh gia đình…”

    Tôi lao đến.
    Anh nằm đó, mặt tái nhợt, toàn thân sưng rộp, bác sĩ nói anh bị dị ứng hóa chất cực mạnh, nghi do “tiếp xúc trực tiếp với chất tẩy dính vào vùng kín.”

    Tôi đứng lặng.
    Đúng lúc ấy, y tá cầm lên một chiếc quần đỏ ướt đẫm, nói tìm thấy trong túi áo của cô gái đi cùng anh — người đang nằm phòng bên cạnh, bất tỉnh.

    Mọi người xung quanh xôn xao.
    Còn tôi chỉ mỉm cười, lạnh tanh.
    Trong lòng nghĩ:

    “Kịch hay thật đấy. Đạo diễn: là tôi.”

  • Giá mà hôm đó tôi không đòi ăn cơm, giá mà tôi ngoan hơn một chút, có lẽ cha mẹ đã không bán tôi đi – Tôi tên là Hải, nhưng cả nhà vẫn quen gọi tôi là Hòe – cái tên cúng cơm bố mẹ đặt, mong tôi khỏe mạnh như cây hòe trước ngõ. Tôi là con thứ ba trong gia đình có bốn chị em. Cha tôi làm nghề thợ mộc, mẹ tôi quanh năm vất vả với vài sào ruộng cằn. Cuộc sống đã chật vật, vậy mà năm Ất Dậu 1945, nạn đói ập xuống Nam Định quê tôi, cuốn phăng tất cả. Ngày ấy, cái đói lăm le mọi ngõ xóm. Mỗi sáng mở mắt, tôi chỉ nghe tiếng khóc và tiếng rên la. Người chết đói nằm la liệt ngoài đường, có khi chỉ cần một cơn gió thổi qua, thân xác gầy gò cũng gục xuống. Những ngày đầu, chị em tôi thường rủ nhau ra đồng nhặt rau sam, loại rau mọc dại ven bờ. Chúng tôi hái về luộc với chút muối, coi như bữa no. Nhưng rồi rau cũng hết. Chúng tôi liều lĩnh đào trộm khoai lang nhà hàng xóm. Một lần bị bắt quả tang, cả bốn chị em bị trói vào gốc cây giữa nắng chang chang nửa ngày trời. Tôi nhớ mãi ánh mắt lạnh lùng của người lớn, và tiếng khóc xé lòng của mẹ khi chạy ra cầu xin tha cho con. Cha mẹ thương con, chạy vạy khắp nơi vay mượn. Có khi vay được ít ngô, về giã nhỏ, nấu cháo cho cả nhà. Nhưng được mấy bữa, chủ nợ lại tìm đến. Họ đứng ngay cổng, gõ cửa ầm ầm, đòi tiền, đòi gạo. Cha tôi nhìn cảnh ấy, mắt đỏ hoe. Cuối cùng, ông và mẹ bàn nhau: “Không thể ở lại làng nữa. Nếu ở, cả nhà cũng chết.” Đêm đó, cả nhà chúng tôi rời quê. Cha gồng lưng vác hộp gỗ đựng đồ nghề, quyết chí đi khắp nơi tìm việc. Hai chị lớn, Phú và Phí, gánh nồi niêu, quần áo. Mẹ một tay bế thằng út còn đỏ hỏn, một tay dắt tôi. Bốn đứa trẻ, một cặp vợ chồng, lầm lũi bước dọc đường tàu, suốt mấy ngày đêm. Tôi còn nhớ như in, đi đến đâu thấy quán cơm là tôi lại níu áo cha đòi ăn. Cha chỉ cúi đầu: “Không có tiền con ạ.” Em út khóc ngằn ngặt vì khát sữa, mà mẹ cũng kiệt sức, chẳng còn giọt nào. Những bước chân nặng nề như dẫm lên lửa bỏng. Cuối cùng, khi đến cổng chợ Nhổn (nay thuộc Hà Nội), cả nhà kiệt quệ, không thể đi thêm. Tôi ngồi bệt xuống, mắt hoa lên vì đói. Và chính ở nơi đó, cuộc đời tôi rẽ sang một hướng khác. Một nữ địa chủ giàu có tên Thịnh ở làng Kiều Mai đi ngang qua, nhìn thấy chúng tôi. Bà ta nhìn tôi từ đầu đến chân, rồi quay sang cha: – “Để con bé cho tôi. Tôi nuôi nó, nó sẽ không phải chết đói nữa.” Tôi nghe mà tim thắt lại. Khi biết chắc họ định bán mình, tôi hoảng loạn, ôm chặt lấy chân cha, khóc gào: – “Thầy ơi, con không đi đâu! Con muốn ở với thầy mẹ thôi!” Cha tôi run rẩy, cố gỡ từng ngón tay tôi ra khỏi ống quần ông. Nước mắt ông chảy dài, giọng nghẹn như có ai bóp cổ: – “Con đi… sẽ được ăn no, được sống. Ở với thầy mẹ, con sẽ khổ… Con tha lỗi cho thầy mẹ…” Người phụ nữ kia nhét vào tay cha hai hào bạc xanh. Đôi bàn tay chai sần run lên khi cầm lấy số tiền rẻ rúng ấy – số tiền đã mua đứa con gái thứ ba của ông. Tôi bị kéo đi trong tiếng khóc xé lòng của mẹ. Tôi quay đầu nhìn lại, thấy bóng cha mẹ và các chị em nhỏ dần, rồi khuất hẳn. Đó là lần cuối cùng tôi được ở trong vòng tay gia đình. Sau này, khi đã già, mỗi lần nhớ lại, tôi vẫn bật khóc: – “Giá mà hôm đó tôi không đòi ăn cơm, giá mà tôi ngoan hơn một chút, có lẽ cha mẹ đã không bán tôi đi…” Nhưng rồi tôi hiểu, đó là cái đói. Cái đói có thể biến người lương thiện thành kẻ tàn nhẫn, biến cha mẹ thành người phải dứt ruột bán con. Họ không ghét bỏ tôi. Họ chỉ muốn tôi sống. Trong nhà bà Thịnh, tôi được ăn no mặc ấm, nhưng nỗi nhớ cha mẹ, anh chị cứ dày vò từng đêm. Tôi lớn lên cùng vết thương trong lòng – vết thương mang tên “nạn đói Ất Dậu”. Hơn bảy mươi năm sau, khi đã thành bà cụ tóc bạc, mỗi lần kể lại, nước mắt tôi vẫn rơi. Nhưng lần này, tôi không trách cha mẹ nữa. Tôi chỉ thầm biết ơn: nhờ quyết định đau đớn ấy, tôi còn sống, còn được chứng kiến con cháu trưởng thành, để nhớ về một thời máu và nước mắt của dân tộc. Nạn đói đã cướp đi hàng triệu sinh mạng, nhưng cũng để lại những câu chuyện khắc cốt ghi tâm. Câu chuyện của tôi – một đứa trẻ bị bán giữa cơn đói khủng khiếp – là minh chứng rằng tình thương cha mẹ, dẫu bị che phủ bởi cái đói, vẫn sáng lên trong nghịch cảnh.

    Tôi tên là Hải, nhưng cả nhà vẫn quen gọi tôi là Hòe – cái tên cúng cơm bố mẹ đặt, mong tôi khỏe mạnh như cây hòe trước ngõ. Tôi là con thứ ba trong gia đình có bốn chị em. Cha tôi làm nghề thợ mộc, mẹ tôi quanh năm vất vả với vài sào ruộng cằn. Cuộc sống đã chật vật, vậy mà năm Ất Dậu 1945, nạn đói ập xuống Nam Định quê tôi, cuốn phăng tất cả.

    Ngày ấy, cái đói lăm le mọi ngõ xóm. Mỗi sáng mở mắt, tôi chỉ nghe tiếng khóc và tiếng rên la. Người chết đói nằm la liệt ngoài đường, có khi chỉ cần một cơn gió thổi qua, thân xác gầy gò cũng gục xuống.

    Những ngày đầu, chị em tôi thường rủ nhau ra đồng nhặt rau sam, loại rau mọc dại ven bờ. Chúng tôi hái về luộc với chút muối, coi như bữa no. Nhưng rồi rau cũng hết. Chúng tôi liều lĩnh đào trộm khoai lang nhà hàng xóm. Một lần bị bắt quả tang, cả bốn chị em bị trói vào gốc cây giữa nắng chang chang nửa ngày trời. Tôi nhớ mãi ánh mắt lạnh lùng của người lớn, và tiếng khóc xé lòng của mẹ khi chạy ra cầu xin tha cho con.

    Cha mẹ thương con, chạy vạy khắp nơi vay mượn. Có khi vay được ít ngô, về giã nhỏ, nấu cháo cho cả nhà. Nhưng được mấy bữa, chủ nợ lại tìm đến. Họ đứng ngay cổng, gõ cửa ầm ầm, đòi tiền, đòi gạo. Cha tôi nhìn cảnh ấy, mắt đỏ hoe. Cuối cùng, ông và mẹ bàn nhau: “Không thể ở lại làng nữa. Nếu ở, cả nhà cũng chết.”

    Đêm đó, cả nhà chúng tôi rời quê. Cha gồng lưng vác hộp gỗ đựng đồ nghề, quyết chí đi khắp nơi tìm việc. Hai chị lớn, Phú và Phí, gánh nồi niêu, quần áo. Mẹ một tay bế thằng út còn đỏ hỏn, một tay dắt tôi. Bốn đứa trẻ, một cặp vợ chồng, lầm lũi bước dọc đường tàu, suốt mấy ngày đêm.

    Tôi còn nhớ như in, đi đến đâu thấy quán cơm là tôi lại níu áo cha đòi ăn. Cha chỉ cúi đầu: “Không có tiền con ạ.” Em út khóc ngằn ngặt vì khát sữa, mà mẹ cũng kiệt sức, chẳng còn giọt nào. Những bước chân nặng nề như dẫm lên lửa bỏng.

    Cuối cùng, khi đến cổng chợ Nhổn (nay thuộc Hà Nội), cả nhà kiệt quệ, không thể đi thêm. Tôi ngồi bệt xuống, mắt hoa lên vì đói. Và chính ở nơi đó, cuộc đời tôi rẽ sang một hướng khác.

    Một nữ địa chủ giàu có tên Thịnh ở làng Kiều Mai đi ngang qua, nhìn thấy chúng tôi. Bà ta nhìn tôi từ đầu đến chân, rồi quay sang cha:
    – “Để con bé cho tôi. Tôi nuôi nó, nó sẽ không phải chết đói nữa.”

    Tôi nghe mà tim thắt lại. Khi biết chắc họ định bán mình, tôi hoảng loạn, ôm chặt lấy chân cha, khóc gào:
    – “Thầy ơi, con không đi đâu! Con muốn ở với thầy mẹ thôi!”

    Cha tôi run rẩy, cố gỡ từng ngón tay tôi ra khỏi ống quần ông. Nước mắt ông chảy dài, giọng nghẹn như có ai bóp cổ:
    – “Con đi… sẽ được ăn no, được sống. Ở với thầy mẹ, con sẽ khổ… Con tha lỗi cho thầy mẹ…”

    Người phụ nữ kia nhét vào tay cha hai hào bạc xanh. Đôi bàn tay chai sần run lên khi cầm lấy số tiền rẻ rúng ấy – số tiền đã mua đứa con gái thứ ba của ông. Tôi bị kéo đi trong tiếng khóc xé lòng của mẹ.

    Tôi quay đầu nhìn lại, thấy bóng cha mẹ và các chị em nhỏ dần, rồi khuất hẳn. Đó là lần cuối cùng tôi được ở trong vòng tay gia đình.

    Sau này, khi đã già, mỗi lần nhớ lại, tôi vẫn bật khóc:
    – “Giá mà hôm đó tôi không đòi ăn cơm, giá mà tôi ngoan hơn một chút, có lẽ cha mẹ đã không bán tôi đi…”

    Nhưng rồi tôi hiểu, đó là cái đói. Cái đói có thể biến người lương thiện thành kẻ tàn nhẫn, biến cha mẹ thành người phải dứt ruột bán con. Họ không ghét bỏ tôi. Họ chỉ muốn tôi sống.

    Trong nhà bà Thịnh, tôi được ăn no mặc ấm, nhưng nỗi nhớ cha mẹ, anh chị cứ dày vò từng đêm. Tôi lớn lên cùng vết thương trong lòng – vết thương mang tên “nạn đói Ất Dậu”.

    Hơn bảy mươi năm sau, khi đã thành bà cụ tóc bạc, mỗi lần kể lại, nước mắt tôi vẫn rơi. Nhưng lần này, tôi không trách cha mẹ nữa. Tôi chỉ thầm biết ơn: nhờ quyết định đau đớn ấy, tôi còn sống, còn được chứng kiến con cháu trưởng thành, để nhớ về một thời máu và nước mắt của dân tộc.

    Nạn đói đã cướp đi hàng triệu sinh mạng, nhưng cũng để lại những câu chuyện khắc cốt ghi tâm. Câu chuyện của tôi – một đứa trẻ bị bán giữa cơn đói khủng khiếp – là minh chứng rằng tình thương cha mẹ, dẫu bị che phủ bởi cái đói, vẫn sáng lên trong nghịch cảnh.

  • Từ cô gái ngây thơ nhất làng Đông, My trở thành bà trùm của Hồng Tơ quán, cho đến 1 ngày cô phải lòng ông Minh nghèo góa vợ ở cuối xóm

    Ngày còn ở làng Đông, My là cô gái hiền nhất vùng — ai nhờ gì cũng giúp, đi học về còn phụ mẹ nhặt rau, chăn vịt.
    Nhưng đời không chiều người hiền.
    Sau một vụ cha bị tai nạn, nợ chồng chất, mẹ bệnh nằm liệt giường, My buộc phải bỏ học, lên phố làm thuê.
    Chẳng ai ngờ, chính đêm cô bị lừa vào quán hát “Hồng Tơ” — lại là khởi đầu cho một đời đổi khác.


    Ba năm sau, cái tên “My Hồng” trở thành nỗi ám ảnh của dân ăn chơi đất tỉnh.
    Cô là bà trùm đứng sau Hồng Tơ quán, vừa sắc sảo, vừa tàn lạnh — không ai dám động đến.
    Tiền, xe, vàng, đàn ông quyền thế… thứ gì cô cũng có.
    Nhưng trong đôi mắt My vẫn có thứ gì đó trống rỗng — như thể mỗi đêm cô lại hỏi:

    “Nếu ngày xưa cha không chết, mẹ không bệnh, liệu mình có ra nông nỗi này không?”


    Một chiều mưa, trên đường về quê cũ thăm mộ mẹ, My ghé quán nước đầu làng.
    Ở đó, cô gặp ông Minh — người đàn ông trung niên, góa vợ, làm nghề mộc.
    Ông nghèo, thô ráp nhưng hiền lành, nói năng chân thật đến lạ.
    Cái giọng khàn khàn, bàn tay chai sạn của ông khiến tim My run rẩy — thứ cảm xúc mà bao năm cô tưởng đã chết.

    Từ hôm ấy, My bắt đầu về làng thường xuyên hơn.
    Cô bỏ son phấn, mặc áo nâu sồng, tập nấu cơm, giặt giũ, chỉ mong được làm vợ lẽ của ông Minh, được sống yên bình bên người đàn ông ấy, dẫu phải rời xa ánh đèn quán hát.


    Nhưng đời đâu cho cô yên.
    Ngày My thu xếp tiền, bán dần cổ phần quán hát để về với ông, bà Hai – chị dâu của ông Minh – kéo đến tìm, ném vào mặt cô tấm hình cũ.
    Trong ảnh là vợ ông Minh khi còn sống… và cha của My.

    Bà Hai gằn giọng:

    “Cô biết mình đang muốn lấy ai không? Ông Minh là anh trai cùng cha khác mẹ của cô đấy, My ạ.”

    Cả người My chết lặng.
    Mọi thứ như sụp đổ.
    Cô lao ra mưa, quỳ sụp trước mộ mẹ, gào thét:

    “Mẹ ơi, sao mẹ không nói con biết! Sao con lại yêu chính người cùng máu thịt của mình…”


    Đêm ấy, người ta thấy căn phòng của bà trùm Hồng Tơ sáng đèn lần cuối.
    Sáng ra, cửa mở toang, chỉ còn lại bức thư ngắn:

    “Con đã chọn yêu sai người, nhưng ít ra, lần này con được yêu bằng trái tim thật.”

    Còn ông Minh — sau khi đọc thư, lặng lẽ khóa xưởng mộc, rồi biến mất khỏi làng.
    Người ta chỉ nói, ở một vùng ven sông xa xôi, có ông thợ mộc già mỗi ngày vẫn vuốt ve tấm ảnh cũ, trong đó là nụ cười rạng rỡ của cô gái từng được gọi là bà trùm Hồng Tơ.